Pages

9.1.11

truyện ngắn: TÔI GẶP MA

Khu cư xá Thanh Đa nằm trên bán đảo Thanh Đa ven dòng sông Sài gòn thơ mộng. Nhắc đến Thanh Đa, ai cũng nghĩ đến món cháo vịt nổi tiếng và những dãy quán cà phê ven sông. Thanh Đa đi vào kí ức của mọi người không chỉ bởi đặc sản cháo vịt, bánh tráng Trảng Bàng hay… những đĩa phim quay lén về cà phê Thanh Đa. Nhắc đến địa danh này, nhiều người vẫn còn rì rầm kể cho nhau nghe những câu chuyện… ma bất thành văn bản… Thắm thoắt đã ba năm trôi qua kể từ ngày sư ông và sư phụ lần lượt qui thiên, tôi ít khi về Thủ Đức thăm chùa. Nhiều lần tôi tự nhắc mình phải về chùa thường xuyên hơn. Dù gì đi chăng nữa, nơi đó vẫn còn di cốt của hai người, vẫn còn có sư bá để mình thăm hỏi. Nhưng, mỗi lần nghĩ đến ông đại sư huynh của thầy là y như rằng tôi rùng mình ớn lạnh. Cái ông già khó đăm đăm, mặt ổng lúc nào cũng quạu đeo, hầm hầm như người bị mất của mà không tìm ra kẻ trộm (mô Phật). Đặc biệt là đôi mắt, ông nhìn ai là cứ như soi đến tim gan phèo phổi của người ta. Trong các hàng huynh đệ, không ai dám nhìn lâu vô mắt ổng hết trơn. Nghe nói, ngày xưa ông bế quan luyện Thần Long nhãn suốt 108 ngày. Đến khi xuất quan, người ốm tong teo còn hai con mắt cứ như điện. Ai nhìn thấy cũng sợ.
Không biết thật giả thế nào, riêng tôi đã có lần chứng kiến sư bá nhiếp phục con tà bằng ánh mắt rồi. Hôm đó, từ Biên Hoà có một nhóm người chở theo một phụ nữ ngoài ba mươi tuổi. Nhìn chị ta có vẻ như người bình thường nhưng không hiểu sao lại bị trói thúc ké như tội phạm. Thấy ai nấy ngạc nhiên, người nhà vội giải thích:
- Mấy thầy hổng biết đó thôi. Nó tinh ma quỷ quái ghê gớm. Hồi nãy muốn trói được nó tụi tôi phải nhờ đến sáu người đàn ông khoẻ mạnh áp vật xuống mới thắng đó. Chứ sơ sơ hai ba người xáp lại, nó hất một cái ngã chỏng cẳng luôn.
- Sao tôi thấy nó tỉnh queo mà? – Tôi vọt miệng nói, không kịp nhìn thấy ánh mắt răn đe của thầy.
- Tụi tôi cũng hổng biết nữa. Vừa tới đầu đường vô chùa, tự nhiên nó tỉnh queo như chưa hề bệnh hoạn gì hết.
Người đàn bà bổng nhiên khóc nức nở:
- Mấy thầy ơi, cứu giùm con. Khi không mấy ông này áp trói con lại, rồi đánh đập con. Họ nói con là tà ma quỷ quái. Họ đánh con như vầy nè…
Vừa nói, người đàn bà cúi xuống dùng vai phải hất mái tóc rủ loà xoà trước trán lên. Phía trên thái dương cô ta còn một vết bầm rướm máu. Ai nấy xuýt xoa thương cảm. Thấy vậy, người đàn ông lớn tuổi nhất vội phân trần:
- Tụi tôi có làm gì đâu. Nó vu oan giá hoạ đó. Lúc nãy mọi người áp trói nó, nó hất một cái hai người văng ra rồi chạy lao đầu vào cột nhà. Nếu tui không ôm nó lại kịp, chắc bây giờ đã tẩn liệm xong luôn rồi!
Mọi người con đang nói chuyện thì sư bá tôi bước ra. Đang khóc lóc kể lể, người đàn bà ngó thấy sư bá liền nín bặt. Trông vẻ mặt cô ta có vẻ hoảng hốt. Sư bá tỉnh như không, chẳng thèm ngó ngàng gì đến bà ta, từ tốn bước lại bàn ngồi và thong thả rót trà uống. Ai nấy im bặt nhìn sư bá như chờ đợi. Bầu không khí trong chùa bỗng chùng xuống nặng nề…
Uống xong hớp trà, bất chợt ông ngước mắt lên nhìn người phụ nữ…

Cái nhìn của sư bá cũng bình thường thôi, không trừng không trợn nhưng sao tôi cảm thấy từ trong ánh mắt ấy toát ra một uy lực lạ lùng. Bất giác, tôi lùi lại một bước. Nhìn qua mấy sư huynh đồng môn, họ cũng đã lùi trước từ lúc nào. Chỉ có mình thầy tôi ung dung ngồi đó uống nước với sư bá.
Người phụ nữ bỗng thay đổi thái độ. Trông cô ta có vẻ sợ hãi. Đôi mắt cô láo liêng nhìn qua lại như muốn tìm chỗ thoát. Đoạn, cô cười gượng gạo:
- Ơ hay, cái ông thầy này nhìn tui ghê quá hả!
Sư bá vẫn không trả lời, mắt vẫn nhìn cô ta đăm đăm. Không khí lắng xuống đến nặng nề. Tôi cảm thấy ngực mình như có một hòn đá lớn đang đè xuống. Chợt, sư bá cất tiếng:
- Cởi trói cho nó.
- Dạ, nhưng mà thầy… - người đàn ông lớn tuổi toan nói gì đó nhưng nhìn thấy ánh mắt sư bá liền cun cút làm theo không dám nói thêm lời nào.
Những tưởng người phụ nữ sau khi được cởi trói sẽ vùng chạy. Nhưng không, cô ta vẫn đứng đó ngơ ngác. Nhìn khuôn mặt cô ta lúc đó thật đáng sợ, vừa sợ hãi thê lương vừa căm hờn phẫn uất. Cô ta cứ ngó dáo dác mà chân không hề di chuyển. Sư bá vẫn cứ im lặng ngồi nhìn… Ngay lúc đó, người đàn bà cất tiếng cười lớn ghê rợn:
- Ha ha… thằng thầy chùa này mê tao rồi. Tụi bay thấy không, nó nhìn tao say đắm đấy nhé. Này, nhìn hả, nhìn đi, tao cho mày nhìn.
Vừa nói cô ta vừa ưỡn ẹo thân thể ra vẻ khêu gợi. Tôi thấy người nhà đi theo có vẻ lúng túng.
Sư bá vẫn ngồi im, ngó cô ta đăm đăm. Đôi mắt của ông trong trẻo một cách lạ kỳ.
Về phần người phụ nữ, càng ưỡn ẹo cô ta càng có vẻ bứt rứt như phát cuồng. Chợt cô ta gào lên:
- MÀY CÒN NHÌN HẢ, NHÌN CHƯA ĐÃ HẢ? MUỐN NHÌN THÊM KHÔNG, TAO CHO MÀY NHÌN MÃN NHÃN LUÔN.
Trong lúc đang nói, cô ta lao nhanh về phía sư bá. Mọi người hốt hoảng, tôi thoáng thấy sư huynh Minh Tịnh co tay thành Lôi ấn. Chắc huynh ấy định sử dụng Ngũ lôi phù.
Nhưng, ngoài dự đoán của mọi người. Sư bá vẫn điềm nhiên ngồi nhìn, thầy tôi ngồi kế bên cũng ung dung không kém. Dường như thái độ hùng hổ của người đàn bà ấy không tác động gì đến hệ thần kinh của hai người.
Điều bất ngờ nhất đã xảy ra. Người đàn bà đang lao đến chỗ sư bá đã đứng sững lại như va phải một bức tường vô hình, cô ta loay hoay mãi không thể nào tiến thêm một bước. Tức khí, cô ta cất tiếng chửi:
- Mẹ mày… đồ thầy chùa lửa, đồ dê gái! Dê không được nên ngắm nhìn cho đỡ ghiền hả? Muốn nhìn phải không, tao cho mày nhìn tới luôn.
Nói xong, cô ta đưa tay giật tung hàng nút áo ngực lộ cả áo trong ra. Đám đệ tử tui tôi quay mặt chỗ khác. Người nhà cô ta xấu hổ chạy lại định gài nút áo, cô quay lại hất một cái người nhà té lăn cù như quả banh. Đến lúc này tôi mới thấy sức mạnh kinh hồn của cô ta.
Sư bá vẫn ngồi điềm nhiên nhìn. Nhưng khuôn mặt ông có vẻ nghiêm hơn. mắt ông trở nên sáng long lanh. Người đàn bà cứ đi qua lại trước mặt ông ở khoảng cách hai mét. Cô ta vừa nắm hai vạt áo mở ra khép vào vừa hẩy bụng và ngực về phía sư bá. Nhưng càng làm dữ cô ta càng tỏ vẻ bứt rứt như có cái gì đang thiêu đốt trong người vậy.
Bất ngờ, người đàn bà quỳ thụp xuống gào khóc:
- Thả tao ra, thả tao ra đi. Tao cầu xin mày mà. Làm ơn cho tao đi đi mà…
Sư bá vẫn nhìn lặng lẽ.
Cái nhìn của ông bén ngót như lưỡi dao sắc lạnh xuyên vào da thịt người ta. Tiếng la của người bệnh vang lên bài hãi nghe xé màng nhỉ:

- Trời ơi đừng nhìn nữa! Tha tôi đi, làm ơn tha tôi đi.
Cô ta oằn oại trên sàn như con rắn bị đập đầu, rồi chồm dậy đập đầu xuống đất nghe binh binh. Eo ôi! Cái kiểu này chắc bể đầu chứ không giỡn đâu. Tôi thầm lo trong bụng.
Hai vị tiền bối vẫn ngồi im không nói. Tôi thoáng thấy sư phụ tôi mỉm cười. Dường như ông đã đoán trước được kết quả rồi.
Quả thật như vậy. Người phụ nữ sau vài phút dập đầu đã ngẩng lên, tóc tai rũ rượi, nước mắt ràn rụa. Cô ta lết lại gần sư bá tôi chắp tay van lạy:
- Thầy ơi, thầy tha cho con lần này. Con cầu xin thầy. Xin đừng đốt con nữa tội nghiệp con thầy ơi…
Sư bá quay sang thầy tôi:
- Ông rót giùm tui ly nước cho nó uống đi.
Thầy tôi lặng lẽ làm theo. 
Đón nhận ly nước từ tay thầy tôi, người bệnh uống một cách miễn cưỡng.
- Ngồi xuống đó – Sư bá ra lệnh, người phụ nữ làm riu ríu.
- Ngươi có ân oán gì với cô gái này mà đi theo ám người ta vậy hả?
- Dạ, thưa thầy – thái độ cô ta có vẻ bình tĩnh lại – con là Đặng Duy Nam, vốn là chồng sắp cưới của Như (*tên cô gái). Ba năm trước, lúc tụi con chuẩn bị làm đám cưới thì con bị tai nạn giao thông mà chết. Như đã không nghĩ đến tình cảm của con mà còn bắt bồ với thằng khác. Bây giờ tụi nó sắp cưới nhau. Làm sao con tha thứ cho được.
Sư bá tôi tỏ thái độ nghe chăm chú. Đoạn, ông khẽ cúi đầu thở dài:
- Nhân quả nghiệp báo. Biết bao giờ mới dứt đây.
Ngước mắt nhìn người phụ nữ giờ đây đang ngồi xếp bằng tròn thổ thức dưới đất, ông hỏi:
- Ngươi có biết là vài hôm nữa Quỷ Vô thường đến bắt ngươi về không?
- Dạ … biết…
Sư bá nạt ngang:
- Đã biết sao còn sanh chuyện cho thêm tội hả?
Cô gái cúi đầu tránh ánh mắt nghiêm khắc của ông, lí nhí trả lời:
- Thầy ơi, con không cam lòng… con yêu Như mà thầy…
- Vậy là người định bắt cô gái này theo người chứ gì?
- Dạ…
- Đúng là vô minh!- sư bá quát lớn khiến mọi người giật thót mình - Thọ mạng người ta còn, ngươi bắt được à. Bắt rồi, ngươi có sống được với người ta không chứ. Nghiệp chồng nghiệp, phen này ngươi khó đầu thai rồi.
- Thầy ơi, vậy bây giờ làm sao hả thầy?
- Nếu người bằng lòng rời khỏi thể xác, ta sẽ nói gia đình cô ta lập trai đàn ba ngày siêu độ cho ngươi. Nhờ các thầy trì tụng, mong rằng ngươi sẽ được giải bớt nghiệp chướng đời này.
- Nhưng… còn Như thì sao?
- VÔ MINH – sư bá hét lớn - VẪN CÒN QUYẾN LUYẾN KHÔNG MUỐN RỜI PHẢI KHÔNG?
- Dạ… con…
- Ngươi không chịu tỉnh ngộ, ta nhốt ngươi ba ngày rồi triệu Vô thường quỷ đến bắt đi. Lúc ấy ngươi không trách gì ta được nha!
- Dạ... thưa thầy... con chịu…

… Sau sự việc ấy, sư bá tôi nổi danh như cồn, tiếng tăm vang xa hơn cả sư ông. Nhiều người bệnh từ khắp nơi: Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vũng Tàu, Phan Thiết… cũng lặn lội tìm đến chữa trị. Ngày ấy, tôi thường xuyên về chùa nên chứng kiến và học hỏi rất nhiều từ ông đại sư huynh của thầy mình…Nhớ đến sư bá là bao nhiêu kỉ niệm lại ùa về trong tâm trí… Tôi khẽ lắc lắc cái đầu như muốn xua tan hoài niệm. Hôm nay tôi phụ trách city tour. Một đoàn khách từ Quảng Bình vào tham quan thành phố ba ngày. Đây cũng là cán bộ hành chánh nên giá tour chẳng có bao nhiêu. Phòng điều hành quyết định đưa khách về nghỉ tại Nhà nghỉ Công đoàn Thanh Đa. Nghĩ ra cũng tiện, tiện nghi cũng không đến nỗi tệ, cách phục vụ đúng kiểu bao cấp (chắc cũng quen thuộc với khách), không gian cũng yên tĩnh…
Ngày thứ nhất, đón khách từ cầu Bình Triệu. Tôi đưa thẳng về nhà nghỉ nhận phòng rồi ăn chiều. Những công việc lặt vặt của nghề thiết tưởng không cần phải kể ra làm gì cho dài dòng. Tôi xin kể vào sự việc chính…
Tối đầu tiên tham quan chợ Bến Thành và dạo phố đêm, nhiều vị khách đi lạc không biết đường về điểm tập kết. Tôi phải tìm mướt mồ hôi mới gom lại đủ. Về đến Nhà nghỉ Thanh Đa thì đồng hồ đã chỉ 11g35’. Giờ này còn về nhà gì nữa! Tôi quyết định ở lại để sáng mai đưa khách đi Củ Chi sớm. Các chị nhà phòng cũng ưu ái xếp cho tôi căn phòng tiện nghi ở cầu thang số 12 (gần cổng lớn). Những tưởng sau những giờ mệt mỏi chạy rã giò tìm khách, tôi sẽ ngủ một giấc ngon lành. Nhưng không, thật khó ngủ. Cố nhắm mắt dỗ ngủ mà lòng cứ tỉnh như không. Đôi mắt cứ trao tráo nhìn trần nhà như không muốn khép. Tiếng quạt trần quay vù vù làm tôi khó chịu. Tắt quạt một lát thấy nóng nực lại chồm lên mở. Tôi cứ loay hoay, bứt rứt. Định ngồi dậy luyện tập một lát nhưng lại làm biếng. Kể từ khi sư ông và thầy mất rồi, tôi cũng trở nên chây lười, chễnh mãng việc tập tành. Đã vậy tôi còn đi theo lũ bạn trong công ty đi hát hò nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng. Riết rồi tôi không biết mình có còn là dân huyền môn hay không nữa. Hình như những gì trong quá khứ đã phai nhạt dần khi hiện tại mở ra quá nhiều cám dỗ. Tôi bắt đầu thích cái cảm giác ngồi đến hai ba giờ sáng ở một quán nhậu ven sông để lắng nghe nhịp thở của cuộc sống về đêm, lắng nghe mạch máu căng ra vì chất men quá liều, nghe hơi lạnh tràn về khắp mọi nẻo giăng giăng. Tôi cũng bắt đầu để ý đến một chút thời trang của các cô trong công ty, cũng chịu khó pha trò, nói tục… Tôi đã thay đổi không còn là mình cho đến đêm nay…
Không muốn tập luyện, tôi chuyển sang dỗ ngủ bằng cách đếm. Đếm đến mấy ngàn số rồi tôi vẫn cứ trơ trơ. Bực mình, tôi ôm mền ra phòng khách nằm ngủ. Kéo mấy cái ghế salon lại sát nhau, tắt đèn, mở quạt trần vừa đủ mát, tôi hạ tấm nệm dựa lưng xuống làm gối và khoan khoái kéo mền lên tận cổ để ngủ. Quả thật ở ngoài phòng khách mát mẻ hơn nhiều. Tôi lim dim tận hưởng cảm giác thoải mái rồi lâng lâng vào giấc ngủ…
Bất ngờ ... cái mền tôi đang đắp bỗng nhiên tụt xuống như có người đang kéo...
Giật phắt mình, tôi chụp cái mền ngồi bật dậy ngó dáo dác… Chung quanh im lặng như tờ, chỉ có tiếng quạt máy quay vù vù trong không gian.
Ngồi im một lúc lâu, thấy không có động tĩnh gì, tôi lại nằm xuống kéo mền lên ngực ngủ tiếp…
Vừa lịm người đi, cái mền đang đắp trên người tôi bị ai đó giật phắt một cái rơi xuống đất. Thất kinh hồn vía, tôi chồm dậy la lớn: “AI ĐÓ?”. Đáp lại câu hỏi của tôi là không gian tối om, tĩnh lặng.
Tim đập thình thịch, tôi rón rén chạy đến góc phòng bật công tắc đèn. Xung quanh sáng loà ánh đèn néon trắng. Mọi thứ vẫn ổn, chỉ có cái mền của tôi là không bình thường. Nó bị quăng vào góc tường, cách chỗ tôi nằm hơn một thước. Vừa sợ vừa giận, tôi co tay thủ Kiếm quyết bước tới nhặt cái mền lên. Xung quanh vẫn tĩnh lặng. Nghe hơi ớn lạnh, tôi để luôn đèn sáng, nhảy lên salon nằm.
Lần này đừng hòng mà ngủ.
Tôi nằm nghiêng chờ đợi, tay phải nắm luôn Kiếm quyết, bụng thầm nghĩ: “Tụi bây định giỡn mặt với thầy hả con. Đứa nào ra ông cho một kiếm là tan nát hồn phách luôn!”.
Một phút…
Hai phút…
Năm phút…
Mười phút…
Chẳng có động tĩnh gì.
Tôi mệt mỏi bắt đầu lim dim mơ màng. Bỗng…
“Ké…é.. é..t”
Hai chiếc ghế salon được tôi kê làm giường nằm bị kéo thẳng về hai phía. Tôi rơi xuống đất đánh “bịch” một cái đau điếng hồn. Hoảng quá, tôi lồm cồm bò dậy quơ vội cái mền chạy vào phòng đóng cửa lại...
Chui tọt vào trong mùng, tôi không quên mở đèn sáng choang. Tim đập liên hồi trong cảm giác bàng hoàng, sợ hãi, tức tốI, hổ thẹn. Ai đờI làm thầy chữa bệnh trị tà, giảI vong từ bao năm qua, vậy mà đến lúc này bị ma quỷ phá phách mớI xấu hổ chứ!
Tôi ngồI thừ trong mùng một hồI lâu vớI ngổn ngang tâm trạng. Nhìn xuống đồng hồ, cây kim giờ đã chỉ đúng số 1. Tôi uể oảI chắp tay đọc bài kinh Phật Tổ:
“Á rá hăn – sam ma sam buol đô
Quýt chá chá rá ná
Sam ban đô
Su ga tô
Lô ca quyt du
An nu ta rô
Pu ri sa đam
Ma sa ra thi
Sat tha đê va
Ma nu sa năng buôl đô
Pa ga va ti”
 MớI đọc có 2 biến mà mắt tôi muốn sụp xuống. Buồn ngủ kinh khủng. Ráng đọc xong đến biến thứ ba là tôi rũ cả ngườI ra. DuỗI chân ra ngáp dài một tiếng, tôi ngả lưng xuống nệm, vặn vẹo ngườI mấy cái khoan khoái. Cảm giác nặng nề lúc nãy biến mất. Tôi xoay ngườI lạI ngay ngắn và thiếp đi…
… Sao mà tôi vẫn thức thế này! mắt vẫn mở trao tráo nhìn trần nhà. Một cảm giác lạnh lẽo bao trùm lấy căn phòng, cái lạnh phủ dần từ hai bàn chân, lan toả đến đầu gối. Tôi cảm thấy rất rõ từng thớ thịt tôi ơn ớn rồI tê lạI khi hơi lạnh đi qua. Biết có chuyện, tôi cựa mình ngồI dậy. Nhưng, tay chân tôi không còn điều khiển được theo ý mình nữa rồi. Hơi lạnh lan đến bụng, cảm giác nặng nề khó thở tràn ngập, ngực tôi nặng như đá đè, phổI cứng lạI không thở được. Và tôi thấy…trong ánh sáng trắng bệch của ngọn đèn néon, hai bóng ngườI đi xuyên qua cánh cửa phòng ngủ bước vào trong. Rõ ràng họ đi rất bình thường, nhưng không có một cản trở ngăn ngạI nào trong bước đi của họ. Đó là hai ngườI đàn ông, một già một trẻ. Gương mặt xanh xao lạnh lùng vô cảm. Đôi mắt đứng tròng không hề chớp cứ nhìn chăm chăm vào mặt tôi. Cả hai đều mặc bộ đồ trắng, thứ quần áo bệnh viện thường mặc cho bệnh nhân…
Nói thì dài nhưng sự việc diễn ra nhanh chóng. Họ bước xuyên qua cái giường ngoài (mỗI phòng ngủ của Thanh Đa có hai giường, tôi nằm giường trong, sát vách tường) và tiến đến ngay chỗ tôi nằm. NgườI trẻ đứng phía dướI chân, ngườI già đứng ngang ngườI tôi. Họ cúi xuống.
Giá mà tôi có thể hoá thành khói biến đi khỏI đôi mắt của họ, Nó đờ đẫn và sâu hun hút như cánh cửa địa ngục, khuôn mặt xanh mét của một xác chết. Cả hai thò tay ra…
Bốn cánh tay cùng lúc xuyên qua chiếc mùng tuyn mỏng và dần dần hạ xuống cổ tôi. Tôi nhìn thấy rõ những cẳng tay gầy guộc, khẳng khiu không có một chút sinh khí nào. Các bàn tay đè chặt làm tôi không thở được, hơi lạnh chết chóc từ những ngón tay thít chặt trên cổ truyền sang cơ thể, thấm vào trong mạch máu làm tôi cứng đờ người. Tôi vùng vẫy trong tuyệt vọng, miệng thốt ra những tiếng ú ớ vô nghĩa. Hai bóng ma vẫn trơ trơ vô hồn, đôi mắt sâu thẳm của họ mở ra to dần thành hai hố đen sâu hun hút, tôi thấy trong đó là vòng xoáy trôn ốc cuốn tôi vào. Đầu óc quay cuồng, ngực không còn thở được, tôi thở dài: “Vậy là hết…!”
Bỗng nhiên…
Một tiếng vỗ bàn vang lên đánh “RẦM” như tiếng sấm. Nghe như tiếng vỗ bàn quen thuộc của sư bá tôi khi nhiếp phục con tà.
Tôi giật nảy mình. Hai bóng ma mờ dần, mờ dần rồi tan biến như sương khói.
Cảm giác lạnh lẽo khó thở cũng giảm nhẹ dần…
Tôi chồm dậy. Đèn néon vẫn sáng, chiếc quạt trần vẫn quay nhè nhẹ trên cao. Xung quanh yên ắng đến lạ kỳ. Tôi bần thần không biết là mơ hay thật. Nhưng có điều chân tôi vẫn còn cảm giác lành lạnh không bình thường. Tim vẫn còn đập thình thịch trong lồng ngực. Gương mặt hai người đàn ông lúc nãy vẫn còn lở vởn trong đầu. Ngay lúc này, khi kể lại câu chuyện, trước mắt tôi như vẫn hiện rõ mồn một hai khuôn mặt ấy.
Không có thờI gian suy nghĩ nữa. Tôi lập tức lấy gốI và mền kê làm toạ cụ, xoay mặt về hướng Tây Nam kết ấn Chuẩn Đề bố tự hộ thân và bắt đầu trì tụng theo phép Sư tử Hống:
“AUM – CHA – LE – CHU – LE – CHAN – DI – SVA – HA”
Trong lúc trì, tôi quán tưởng mình hiện tướng phẫn nộ (mà làm sao không “phẫn nộ” được cơ chứ! Làm thầy mà để ma giỡn mặt có đáng giận không!), tám tay tôi cầm đủ tám món binh khí :KIẾM – KÍCH – BÚA – MÓC CÂU – BÀNG BÀI – CHÀY ĐỘC CỔ - CHÀY TAM CỔ - VÒNG KIM CANG.
Tôi trì với tất cả sự tức giận, sợ hãi và xấu hổ. Đã lâu lắm rồi tôi mới có lại sự nhất tâm như thế này. Tiếng trì tụng ban đầu còn run rẩy, sau cứ to dần, to dần.Tôi cũng thấy mình cũng to dần như phiến đá trên Vồ Thiên Tuế của núi Cấm. Toàn thân tôi bốc lửa…
Lửa cất cao ngọn, từ trong thân tôi toả ra xung quanh rồI đốt trụI tất cả - kể cả tôi.
Tôi ngồI không biết bao lâu. Nhưng khi mở mắt ra xả đàn thì ngài cửa sổ trờI đã mờ mờ sáng. Toàn thân tôi ướt đẫm mồ hôi. Cái mền kê làm toạ cụ và phần nệm giường cũng thấm mồ hôi ướt sũng.
Tôi chà nóng hai tay rồI xoa bóp toàn thân cho thông máu. Thân thể tôi lúc ấy nhẹ nhàng và sảng khoái lạ lùng. Có điều… toàn thân tôi bốc ra mùi thúi kinh khủng, Nó thum thủm nặng mùi như xác chó mèo chết sình. Lúc đầu tôi còn tưởng ngoài cửa sổ có con chuột chết nào đó. Nhưng sau khi tìm kiếm một hồI, tôi giơ tay lên ngửI thì… Oẹ! mùi thúi xộc thẳng vào mũi xông lên tớI óc làm tôi muốn ói vọt ra. Tôi vộI vàng lau khô mình rồI nhảy vào nhà tắm. Mất gần ba mươi phút kỳ cọ tắm rửa, tôi mớI thoát khỏI sự ám ảnh của mùi hương độc đáo ấy.
Thả bộ ngoài vườn hoa nhà nghỉ Thanh Đa trong buổI sáng trong lành, tôi mớI cảm nhận hết giá trị của cuộc sống. Thế này mớI là hưởng thụ đây chứ! Chợt nhớ, đã lâu lắm rồI tôi không đi dạo buổI sáng. Tôi nhớ lạI những ngày ở chùa, sáng sớm thầy tôi đã bắt thức dậy đi kinh hành quanh khuôn viên chùa. Lúc ấy là những ngày vui sướng và an lạc nhất...
Từ sư phụ, tôi nhớ đến sư bá. Lâu lắm rồI tôi không về Thủ Đức. Một cảm giác mong nhớ tự dưng trào lên mãnh liệt đến nỗI tôi muốn đằng vân trở về chùa. MỗI bước chân đi của tôi kéo theo bao nhiêu hoài niệm. Nó cứ như những đợt sóng lòng dồn dập vỗ vào tâm trí…
CuốI cùng, tôi quyết định bỏ tour Củ Chi. Sau khi nhờ được thằng bạn trong công ty dẫn tour giùm, tôi nói vài lờI giả lả khách sáo vớI mọI ngườI trong đoàn và đi ngay, bỏ cả ăn sáng.
Từ Thanh Đa đi về Thủ Đức cũng không xa lắm. Vượt qua cầu Bình Triệu rẽ phảI cặp theo con đường song song vớI tuyến đường sắt, tôi về đến chợ Thủ Đức. Con đường này lâu lắm rồI tôi chưa đi ngang. Chính xác là từ sau ngày thầy tôi mất…
Con đường vào chùa cũng không thay đổI gì mấy. vẫn là những ruộng rau muống nốI tiếp nhau, vẫn là những hàng cây xanh mát mắt. Đây rồI, cánh cổng chùa bằng gỗ cũ kỹ nằm khiêm tốn dướI tán lá bồ đề rợp mát. Cổng vẫn mở rộng như ngày sư ông tôi còn tạI thế. Không khí tĩnh lặng và vắng vẻ quá. Tôi bâng khuâng nhớ đến hai câu đốI từng đọc ở Tịnh xá Trung Tâm:
“Thiền môn rộng mở ít ngườI đến
Cửa khám then cài lắm kẻ vô”
Sợ làm ồn, tôi xuống xe ở cổng và dắt bộ vào. Băng qua sân chùa còn rơi vãi ít chiếc lá đa khô, tôi dẫn xe vào vườn. Một chú tiểu trạc mườI sáu mườI bảy tuổI đang xách nước tướI cây. Nghe tiếng động, chú quay lạI nhìn tôi chăm chú. Tôi chưa kịp hỏI, chú đã nở nụ cươi tươi nói trước:
- Sư huynh tên Dũng phảI hôn?
- Đúng rồI, sao chú biết? – Tôi ngạc nhiên hỏI lại.
Chú tiểu vẫn cườI:
- Sư phụ có dặn, nếu sư huynh đến thì lên thất gặp sư phụ.
- Thất nào? Có phảI chỗ của sư ông lúc trước hôn.
- Dạ đúng rồi. Sau khi khi sư tổ viên tịch, sư phụ dọn lên ở trên đó luôn để tiện việc nhập thất.
- Vậy sao này sư bá không chữa bệnh nữa sao?
- Dạ cũng có, nhưng sư phụ chọn ngườI dữ lắm. Có duyên ông mớI chịu chữa. Bằng không, sư phụ kiếm cớ tránh mặt hết.
- Chà, sau này ông khó khăn quá vậy ta.
- Không phải. Sư bá không muốn tạo nghiệp nữa. HồI sư tổ viên tịch, ông cũng bị hành hết ba ngày mớI hoá được. Lúc đó, các thầy ở các chùa khác đến tụng kinh cầu nguyện, sư tổ đâu có cho. Ông nói, ba chục năm tạo duyên tạo nghiệp gây ân chuốc oán vớI cõi vô hình, bây giờ bị đình trệ ba ngày có là bao. Ông chỉ biểu sư phụ làm phép giảI hết các sắc thần, sắc binh mà trước đây ông mượn để làm việc…
- HồI sư ông bị bệnh, tôi kẹt tour miền Trung về không kịp. Có nghe Minh Tịnh kể lạI nhưng không rõ lắm…
- Sư tổ bị làm mệt suốt ba ngày đêm, ai nấy lo đến rơi nước mắt mà không biết phảI làm sao. Chỉ có sư phụ kề cận trì chú trợ lực cho ông, còn mấy đứa tụI đệ chỉ niệm Phật vòng ngoài.
- Ủa, vậy ra chú đi tu mấy năm rồI à. Vậy mà tôi hổng biết chú.
- Làm sao sư huynh biết được. HồI sư thúc mất cho đến bây giờ, huynh có về chùa được mấy lấn đâu. Về thì huynh chạy lên thất sư tổ ngồI miết, sau đó chạy qua phòng sư phụ ngồI nữa, huynh có để ý đến ai đâu.
Nghe đến đây, tôi khẽ cuốI đầu xấu hổ. Chú tiểu nói đúng. Tôi tệ dần từ sau khi thầy tôi mất…
- Sau khi sư tổ viên tịch, sư phụ không muốn chữa bệnh nữa. Khi nào gặp ngườI hữu duyên có thể tạo phước sau này, sư phụ mớI ra tay thôi. ĐốI vớI ngườI khác nhờ vả, khách thường thì sư phụ bế quan, khách VIP thì sư phụ đi lánh nơi khác. Riết rồI ngườI ta nản không muốn ghé nữa.
Tôi thở dài:
- Thần thông như sư bá mà không giúp ngườI thật là uổng phí.
- Sư phụ nói, Phật độ hữu duyên nhơn. Ngày xưa, trước khi độ ngườI, đức Thế Tôn thường nhập định quán chiếu nhân duyên các đờI của ngườI ta rồI mớI bắt đầu hoá độ. biết được căn duyên mớI hoá độ được tận gốc. Bây giờ, ngườI ta tu Tâm thì ít tu Tướng thì nhiều – tu Huệ thì ít tu Phước thì nhiều – tu Thật thì ít tu Giả thì nhiều – Chân thành thì ít LợI dụng thì nhiều… trợ duyên cho những con ngườI ấy là tự chuốc thêm phiền não, khó lòng thoát khỏI sanh tử luân hồi. Thôi thì, chùa trồng gì ăn nấy, không cần nhờ vả vào những đồng tiền bất chính của những ngườI giả vờ tin Phật. Hộ Pháp sẽ không bỏ ngườI tu …
- Vậy là sau này sư bá thường nhập thất lắm hả?
- Mô Phật. Một tháng sư phụ nhập thất một tuần. Những tháng Hạ, sư phụ không đi Kiết Hạ như các thầy khác mà vô thất ngồI luôn. Còn những ngày không nhập thất, sư phụ ngồI thiền định một ngày bốn thờI Tý Ngọ Mẹo Dậu, mỗI thờI khoảng hai tiếng đồng hồ.
Chỉ có hôm nay hơi lạ. Sư phụ mớI nhập thất có hai ngày thì sáng này ông dậy dặn đệ nếu có sư huynh nào tên Dũng đến chùa thì biểu lên gặp ông…
“Như vậy sư bá biết mình đến hôm nay!” – Tôi thầm nghĩ và càng kính phục thần thông của sư bá. Giá mà tôi có được một chút của ông thôi thì… Đang nghĩ vẩn vơ, tiếng nói của chú tiểu làm tôi giật mình trở về thực tạI:
- Sư huynh lên đi, đừng để sư phụ chờ.
- Ờ há! Mãi nói chuyện mà tôi quên mất. À, mà chú pháp danh gì vậy?
- Mô Phật, sư phụ đặt pháp danh cho đệ là Minh Trí.
Thì ra, hàng đệ tử của thầy và sư bá đều đặt chung chữ Minh. Tôi cũng có pháp danh là Minh Thông, nhưng ít ai gọI đến trừ thầy tôi. Có lẽ tạI con ngườI tôi còn nặng thế tục quá chăng?
Vừa nghĩ ngợI tôi vừa leo lên thất của sư bá. Nói là thất chứ thật ra là phần sân thượng phía sau chùa. Trước đây sư ông về cảI tạo lạI, che mái và ngăn làm hai. Một nửa làm thất và một nửa làm sảnh. Ở ngoài sảnh thờ năm đạo lệnh phù Bàn Cổ bằng vảI vàng. Nét phù được vẽ bằng bút lông đạI tự chấm châu sa và son tàu đỏ thắm. Đó là nơi huynh đệ tôi thỉnh thoảng lên tu luyện theo lệnh của sư ông.
Tôi leo lên đến nơi, nhìn thấy mọI thứ vẫn như xưa. Không kịp nghĩ ngợI gì vì sư bá tôi đã ngồI đó tự lúc nào. Nhìn cái dáng gầy gầy ngồI khoan thai bên cái bàn gỗ uống trà, tôi xúc động muốn trào nước mắt. Tôi bước nhanh đến chỗ ông ngồI, quỳ sụp xuống thổn thức:
- Thưa thầy… - Chỉ có hai tiếng thôi, tôi hết biết nói gì.
Tôi quen gọI sư bá là thầy từ khi thầy tôi dọn nhà về Thủ Đức sống cạnh chùa vớI sư ông (xem “Ngũ Lão Bàn Cổ lệnh phù”).
Sư bá nhìn tôi im lặng chẳng nói năng gì. Ánh mắt ông toát lên vẻ gì đó vừa nghiêm nghị vừa từ ái. Tôi trang trọng đảnh lễ ông bốn lạy. Ông ngồI tĩnh tạI không hề tỏ thái độ nào.
Lạy xong, tôi ngẩng nhìn lên, sư bá chỉ tay vào cái ghế lớn bên cạnh bàn ra dấu tôi ngồi. Nhìn cái ghế còn lớn hơn ghế ông ngồI, tôi rụt rè từ chốI và chạy lạI phía bàn thờ lấy cái ghế đẩu nhỏ hơn đặt xuống cạnh ông.
Sư bá khẽ gật đầu, lạI chỉ tay vào tách trà còn đang bốc khói để sẵn tự lúc nào ở trên bàn. Tôi không hiểu làm sao mà sư bá biết tôi đến lúc này mà rót trà để sẵn.
- Trà nguộI bớt rồI đó, con uống đi. – Lúc này ông mớI mở miệng.
Tôi suýt rơi nước mắt. Sư bá còn nhớ rõ tính tôi không thích ăn uống những đồ quá nóng. Ông quan tâm đến tôi như vậy, còn tôi thì…
Rón tay cầm ly trà lên khẽ nhắp một tí, tôi nghe tỉnh cả người. Mang tiếng là nước trà chứ thật ra chỉ là nước gạo lức rang vàng. Mùi thơm thoang thoảng của gạo rang làm tôi nhớ lạI những ngày xưa, lúc tôi bị đau bụng. Gần một tuần lễ tôi chỉ uống nước gạo rang này cầm hơi… Sư phụ tôi thường đùa tôi: “ Uống nước này đúng một tuần là con thoát thai hoán cốt luôn đó nghe!”.
- Thưa thầy … - Tôi rụt rè toan nói thì sư bá khoát tay.
- Thầy biết hết rồi.
- Sao thầy biết được ạ? - Vừa hỏI xong tôi mớI sực nghĩ mình hỏI quá thừa. Một tia sáng loé lên trong đầu tôi. - Vậy là hồI hôm này thầy đã…
Sư bá khẽ gật đầu, hơi mỉm cườI vớI tay lấy tách trà đưa lên miệng.
Thì ra là vậy. Tiếng vỗ bàn hồI hôm là do sư bá dùng phép cứu tôi. Chả trách tạI sao bỗng dưng ma quỷ rủ nhau biến mất sau tiếng động trong đếm ấy.
- Uống trà đi! - Tiếng của sư bá vang lên cắt ngang luồng suy tư vẩn vơ của tôi. Tôi vội vàng đưa tách trà lên miệng hớp một cái cạn sạch rồi với tay đặt lại lên bàn. Sau vài giây rụt rè, tôi hắng giọng hỏi ông:
- Thưa thầy, con …
- Con thắc mắc vì sao thầy biết phải không?
- Dạ, con… - tôi cứ ấp úng không biết phải hỏi thế nào cho phải.
Khẽ hớp thêm một ngụm trà, sư bá nói:
- Hồi thầy con mất, ổng có gửi lại mấy đứa con cho thầy chăm sóc. Mấy năm qua, sư huynh Minh An của con bỏ đạo theo đời xem như hết phương trở lại, sư huynh Minh Tịnh của con thì chuyên lo tu luyện khá bền bỉ, thầy cũng không phải lo âu. Chỉ có mình con… - nhìn tôi khẽ thở dài, ông nói tiếp – con cứ lửng lửng lơ lơ, nửa đời nửa đạo. Đường thẳng không đi, cứ lạng bên này, tấp bên nọ, lúc chuyên cần hôm sớm, lúc giãy đãy biếng lười. Thầy làm sao yên tâm được.
Tôi cúi đầu không dám nhìn sư bá. Ông nói như đi từ trong bụng tôi đi ra, khiến tôi có cảm giác mình làm bất cứ điều gì cũng bị ông nhìn thấy. Nghĩ đên đây bất chợt tôi điếng hồn… nhớ lại mấy bữa trước tôi nghe lời rủ rê của thằng Huỳnh đi uống bia ôm đến quá nửa đêm !!!
Giọng sư bá vẫn cứ đều đều trầm ấm:
- Hôi hôm, chư thần mách bảo con đang bị cô hồn khuấy phá, thầy nhân dịp này muốn giúp con trở lại con đường cũ…
Tôi không kịp giữ ý tứ, vội xen ngang:
- Thầy cho con hỏi cái phép hồi hôm là phép gì vậy thầy?
- Cái thằng… cái thói học nghề vẫn không bỏ, gặp đúng hệ là sấn tới – sư bá tôi cười nhẹ - thầy dùng câu :“Ki yắc bút ta tu - giắc thắc ki yắc. “
- Ủa, cái câu này dùng để hộ thân tránh người khuất mặt phá phách khi đến những nơi có nhiều âm khí mà thầy?
- Vậy hồi hôm phá con là người gì – sư bá lại vừa cười vừa lắc đầu.
- Nhưng mà…
- Nhưng cái gì? Học không đến nơi đến chốn còn cãi lại. Chỉ một câu chú, cách sử dụng cũng nhiều cái diệu dụng khác nhau. Cái này, khi đọc phải vỗ bàn…
Sư bá mất gần hai mươi phút để ôn lại các bài kinh Nam Tông và giảng lại những chỗ diệu dụng trong lúc sử dụng các câu kinh ấy.
- Mấy câu kinh này anh em tụi con đọc suốt, vậy mà đến bây giờ mới hiểu.
- Chỉ có con bây giờ mới hiểu thôi, Minh Tịnh nó hiểu và sử dụng từ lâu rồi. Cứ lo chuyện đời nhiều vô, có ngày con quên sạch hết những gì mọi người dạy con. Hừ! Chỉ có vài vong linh lưu lạc mà con còn không tự cứu mình được… vậy mà thuở xưa còn xách gói đi chữa tà…
Biết sư bá không giận, nhưng tôi vẫn cúi gằm đầu xuống vì xấu hổ.
- Việc con về chùa hôm nay cũng đủ chứng tỏ con còn chút cơ duyên. Đã đến thì phải ở lại đây ăn cơm, chiều rồi hẵng về. Thôi, con ra sau giếng tắm cho sạch rồi lên chánh điện cúng ngọ với Minh Trí. Nói Minh Trí đưa tạm cái áo của thầy để mặc…
Ngày hôm đó, tôi chìm trong không gian tĩnh mịch của ngôi chùa, những sợ hãi, lo âu, toan tính dường như đã chạy hết ra ngoài cổng…
Cho đến giờ, tôi vẫn thầm cảm ơn mấy con ma vì nhờ nó, tôi mới có cơ hội trở về với ngày xưa…

No comments: