Pages

21.3.11

Bát đại Hộ pháp của Phật giáo Tây Tạng


Một điều khó hiểu của Phật giáo đó là sự xuất hiện của các dạng hình tướng phẫn nộ, khủng khiếp...Có thể nói đó là những hình tướng xấu xí, ghê rợn đến sởn tóc gáy, và những hình tướng phẫn nộ này dường như đi ngược lại với tinh thần Phật Giáo.

Những hình tướng này không hề là biểu tượng cho cái ác hay là tượng trưng cho một ma lực nào đó...Mà thay vào đó chính là tượng trưng cho sự dũng mãnh của thực tại căn bản của vũ trụ nói chung, và tượng trưng cho tâm thức của con người  nói riêng.

Ngoài ra đó còn là sự tiêu diệt những mê muội hư vọng của tâm thức con người, và mục đích của các vị còn là sự bảo hộ cho lòng tín, đức tin. Những hộ thần phẫn nộ là những tượng trưng cho sự chế ngự dục vọng, đánh bại những điều xấu xa.

Những hộ thần thường có thân hình chắc nịch, ngắn nhưng dày... nhiều vị còn có nhiều đầu nhiều tay. Màu sắc của khuôn mặt các ngài thường đựơc hay so sánh với màu mây, màu đá quý...Đó là lý do tại sao trong các sadhanas hay có những đoạn so sánh một vị hộ thần màu đen như đám mây xuất hiện cuối trời, hay là xanh như màu ngọc lục bảo, hoặc trắng như một ngọn núi pha lê, màu vàng như vàng ròng, hoặc màu đỏ như là những tia nắng nơi ngọn núi san hô đỏ...Trong các sadhanas cũng có nói rằng các ngài phủ đầy người một lớp tro của các buổi lễ trộn với dầu mè hoặc là phủ khắp người những vết mỡ, những đốm máu và mỡ người.

Khuôn mặt của các ngài thường có những biểu hiện như sau : miệng mở một cười giận dữ, từ đó ló ra những chiếc răng nanh - người ta hay nói những chiếc nanh đó được làm bằng đồng hoặc sắt. Những con mắt đỏ ngầu đầy máu biểu lộ cho sự phẫn nộ. Thường thì các ngài có 3 mắt.

Điều quan trọng nhất trong nhóm các hộ thần đó chính là nhóm 8 vị, được biết đến như là các hộ pháp chính của Phật giáo Tây Tạng ( Bát Đại Hộ Pháp ), các hộ pháp này được xem như những vị bồ tát, và các ngài có nhiệm vụ chiến đấu một cách không khoan nhượng với bất kì thế lực ma quỷ nào cũng như những kẻ thù của Phật giáo .

Họ bao gồm :
* Yama ( Dạ Ma )
* Mahakala ( Đại Hắc Thiên )
* Yamantaka ( Hàng Phục Dạ Ma )
* Kubera ( Tài Bảo Thiên Vương )
* Hayagriva ( Mã Đầu Minh Vương )
* Palden Lhamo
* Tshangs pa ( Phạm Thiên Trắng )
* Begtse

Yama: ( Dạ Ma ) Thần chết


Dựa trên những truyền thuyết về nguồn gốc của Yama, một người đàn ông được một vị thánh cho biết rằng nếu ông ta nhập định 50 năm ở trong 1 hang động, ông ta có thể đạt được giác ngộ.

Thời gian cứ thế trôi đi, đúng vào đêm ngày thứ 29 của tháng thứ 11 của năm thứ 49. Hai tên trộm đã chạy trốn vào hang động của ông. Trong tay bọn chúng là cái đầu của con trâu mà bọn chúng giết trộm.  Sau đó chúng mới phát hiện ra rằng người đàn ông đã biết được việc làm mờ ám của bọn chúng, bọn chúng quyết định giết ông để bịt đầu mối.

Ông ta van xin bọn chúng tha mạng cho ông, bởi vì chỉ còn vài phút nữa là ông có thể đạt tới giác ngộ. Nếu bị giết chết trước thời hạn 50 năm thì mọi công sức của ông bị đổ sông đổ bể.Bọn cướp phớt lờ trước lời van xin của ông ta, và cắt đứt đầu của ông ta.

Ngay lúc đó, ông ta lập tức biến thành yama và đội cái đầu trâu vào cái xác ko đầu của mình. Yama giết chết hai tên cướp và uống cạn máu của chúng bởi cái chén được làm bằng sọ của bọn chúng.Trong cơn điên cuồng báo thù, Yama đe doạ tiêu diệt hết tất cả dân Tây Tạng.

Người dân Tây Tạng nguyện cầu đức Văn Thù Sư Lợi , xin ngài bảo vệ dân chúng trước cuộc báo thù của Yama. Văn Thù Sư Lợi liền vận dụng thần thông hoá thân thành Yamantaka ( Hàng phục dạ ma ), ngài đánh bại Yama,để cứu giúp dân chúng, đồng thời ngài khiến Yama trở thành một trong những hộ pháp của Phật giáo.

Chúng ta thường thấy Yama hay xuất hiện trong thangka với một phối ngẫu của mình, Chamundi, là người dâng cho Yama một chén tiên dược máu quỷ ( cam lồ máu ). Và những xác người chết như là thứ trang sức của Yama. Yama có màu xanh đen của đầu con trâu.
Vương miện của Yama

Mahakala : Đại Hắc Thiên



Huyền thoại về lịch sử của Mahakala được viết bởi Khedrup Khyungpopa, là người sáng lập dòng truyền thừa Shangpa Kagyu, vào thế kỉ thứ 11. Ngài dạy rằng sức mạnh đặc biệt cũng như năng lực kì diệu của Mahakala là do nguyện lực của đức Avalokiteshvara ( Quan Thế Âm ). Ngài nguyện còn sinh tử và quyết không thành Phật nếu còn chúng sanh chưa được giác ngộ. Sau khi giúp hàng trăm ngàn người, trong vô số đời đạt tới giác ngộ . Ngài thấy rằng sự đau khổ không hề giảm sút mà hơn thế nữa sự ô nhiễm trong tâm thức chúng sanh ngày một tăng trưởng. Ngài thấy thất vọng, nhụt chí. Lúc đó lập tức đầu ngài vỡ tan thành trăm ngàn mảnh vụn.

Phật A Di Đà ( Amitabha) một trong 5 vị Phật ( Tỳ Lô Giá Na Phật, Bảo Sanh Phật, Khai Phu Hoa Vương Phật , A Di Đà Phật, Thiên Cổ Lôi Âm Phật-nd ) ghép những mảnh vỡ lại, và biến thành 11 đầu. Sau đó ngài dặn dò đức Avalokiteshvara hãy thực hiện lại lời nguyện đó một lần nữa, nhưng giữ lời nguyện đó tốt hơn, kiên cố hơn. Do đó Avalokiteshvara có mười một đầu, và trong đó có mười đầu là hiền hoà và một đầu là phẫn nộ. Đầu phẫn nộ đó chính là đại diện cho Mahakala.


Ngài Avalokiteshvara buồn bã, trong khoảng thời gian 7 ngày. Ngài nghĩ rằng trên thế giới đầy những chúng sanh đau khổ cần một kết quả thật nhanh chóng mà không phải có quá nhiều nỗ lực. Sau đó ngài muốn biến mình thành một bổn tôn phẫn nộ để đánh bại nhanh chóng và hiệu quả hơn những trở ngại cho hạnh phúc của người khác. Với tư tưởng này chữ HUM màu xanh đậm xuất hiện từ trái tim ngài. Chủng tự Hum đó đã trở thành Mahakala. Điều đó có nghĩa rằng trong câu thần chú 'Om mani padme hum', chủng tự Hum tượng trưng cho sức mạnh, quyền năng.


Chủng tự Hum của Tây Tạng


Thần chú Om mani padme hum

Sự xuất hiện  của Mahakala kéo theo sự rung động của mặt đất, đồng thời có giọng nói của chư Phật vang vọng trong không trung chứng minh rằng Mahakala có đủ quyền năng làm ban phát những gì chúng sinh mong muốn nếu những mong muốn đó là trung thực và tốt.

Mahakala là một hộ thần giám hộ cho người thống trị Mông Cổ- Thành Cát Tư Hãn- lúc bấy giờ. Sự phẫn nộ của Mahakala được xem  giống như hoá thân phẫn nộ của thần Siva. Ở Tây Tạng, về hình ảnh của Mahakala thường có một đầu và ba mắt, lông mày như những ngọn lửa nhỏ và râu thì có dạng như hình móc câu. Mahakala có từ 2 đến 6 tay.

Điều tự nhiên cơ bản mà dân Tây Tạng thường thờ cúng Mahakala có lẽ là vì ngài là vị thần của lều trại. Bởi vì dân Tây Tạng sống du mục, do vậy thời gian ở lâu mau là phụ thuộc vào thiên nhiên và môi trường xung quanh, do vậy họ dùng lều trại, việc di chuyển và định cư tạm thời là một phần quan trọng của cuộc đời họ.

Ngoài ra ngài còn là một Hộ Pháp rất quan trọng, bởi thế cho nên ở mỗi tu viện đều có một nơi thờ Mahakala.
Yamantaka ( Hàng Phục Dạ Ma )


Yamantaka, là một hoá thân phẫn nộ của Văn Thù Sư Lợi ( Bồ Tát của trí tuệ ), Yamantaka là hoá thân phức tạp và phẫn nộ khủng khiếp nhất trong tất cả các hoá thân phẫn nộ của Phật giáo. Ở hoá thân này , Văn Thù Sư Lợi đã hàng phục được thần chết Yama, khi mà Yama đang trong cơn khát máu điên cuồng trả thù giết hại dân Tây Tạng .

Theo truyền thuyết, trong đại định, Văn Thù Sư Lợi đi khắp tất các nơi trong địa ngục để tìm kiếm Yama. Cuối cùng ngài đã tìm ra được nơi trú ngụ của Yama và các thuộc hạ của mình đó là một thành phố sắt ở địa ngục. ( Yama lúc này mang hình dáng thân người đầu trâu nước ).

Để điều phục Yama, Văn Thù Sư Lợi sử dụng hình dạng như vậy, nhưng thêm vào đó tám đầu và nhân lên nhiều tay, mỗi cánh tay đều cầm những thứ vũ khí đáng sợ. Và hơn thế nữa từ trong thân ngài mọc ra thêm một số lượng chân tương ứng, xung quanh ngài là một số lượng lớn những chúng sanh đang kinh hãi. Để đối đầu với cái chết, ngài hiện thân như chính bản thân của thần chết được nhân lên nhiều lần. Thần chết Yama thấy được bản thân nhưng sự khủng khiếp lại gấp nhiều nhiều lần. Lúc này thần chết Yama gặp phải tình cảnh đúng nghĩa là "sợ muốn chết".

Đó là lý do tại sao các nhà yogi khi thực hành pháp yamantaka , thông qua hình tượng yamantaka họ sẽ phát tiển được định lực đủ mạnh để đối diện với cái chết, cũng như các sự sợ hãi về cái chết. Mỗi đầu, mỗi cánh tay, mỗi bàn chân cho đến từng thái độ, từng món trang sức, tất cả biểu tượng đó của Yamantaka đều là những mảng giác ngộ tối cần thiết cho việc đối diện với cái chết.


Cả Yama và Yamantaka đều mang hình tướng là đầu trâu nhưng Yama thì luôn có một món trang sức hình bánh xe ở trên ngực, đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt hai vị hộ pháp này.
Kubera (Vaisravana) ( Tài Bảo Thiên Vương )




Theo thần thoại Hindu, Kubera là con trai của một nhà hiền triết gọi là "Visravas", vì vậy ngài được đặt theo tên cha mình là "Vairavana".  Truyền thuyết nói rằng do sự tu tập nghiêm chỉnh, sự mộc mạc, chân thật của mình trong hàng ngàn năm. Brahma ( Phạm Thiên ), đấng sáo tạo trong thần thoại của Hindu, đã ban cho ngài sự bất tử và biến ngài thành vị thần của tài bảo. Ngài là vị thần bảo hộ cho tất cả các kho tàng của trái đất. Ngài sẽ ban phát kho tàng này cho những ai xứng đáng.

Nơi ở của Kubera là ngọn núi Kailash ( một đỉnh núi linh thiêng, mà người dân Tây Tạng rất hay hành hương tới, tương truyền ai tới được ngọn núi linh thiêng này thì dường như đã tịnh hoá được rất nhiều nghiệp lực, cũng như đã tiến một bước rất dài trong con đường tu tập - người dịch ). Nhưng khi được Brahma bổ nhiệm làm Thần Tài Bảo, thì Brahma cho ngài vùng Lanka ( Ceylon) làm thủ phủ của ngài.

Cũng dựa theo truyền thuyết, ngài cũng được Brahma tặng cho chiếc xe pushpaka, là chiếc xe khổng lồ và di chuyển theo ý nghĩ của chủ nhân với một tốc độ khủng khiếp

Kubera cũng được thờ cúng bởi các Phật tử, ông được xem như là một vị bảo hộ của phương Bắc ( trong một số tài liệu còn nói Kubera chính là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, người trấn giữ ở phương Bắc, chủ về tài bảo-nd ). Biểu tượng đặc trưng của ông chính là con chồn. Con chồn đặc biệt này luôn nhả ra châu báu.


Theo Phật giáo , ngài còn được gọi là Jambhala. Ngài luôn xuất hiện dưới hình tướng to béo và được bao phủ bởi châu báu. Chân phải của ngài lúc nào cũng đạp lên một cái vỏ ốc nằm trên một bông sen ( vỏ ốc này tượng trưng cho tốc độ khủng khiếp của ngài ).
Hayagriva : Mã Đầu Minh Vương




Mã đầu minh vương đại phẫn nộ

Hayagriva được thờ cúng ở Tây Tạng một cách chính yếu bởi những người buôn ngựa bởi vì người ta tin rằng Hayagriva doạ và đuổi ma quỷ đi bởi tiếng ngựa hí vang trời. Khi người ta thỉnh, ngài sẽ báo hiệu việc giáng lâm của ngài bằng tiếng hí, đó là lý do có cái đầu ngựa trên đảnh đầu, một dấu hiệu đặc trưng của Hayagriva. 

Âm thanh vang ra từ đầu ngựa, theo như truyền thuyết là có khả năng xuyên thủng màn vô minh, đem lại ánh sáng chân thật của tự do. Thần chú của ngài có chứa những câu thơ như sau.

"Nguyện cầu ngài bảo vệ đàn ngựa
Tăng thêm số lượng ngựa cái
Từ những con ngựa này sẽ sinh thêm nhiều chú ngựa con siêu phàm
Xin ngài hãy dẹp hết những chướng ngại trên đường
và hướng cho chúng con đi đúng hướng"

( do lối sống du mục của người Tây Tạng, nên ngựa là một thứ quan trọng ko thể thiếu trong sinh hoạt thường nhật của họ-nd)
Hayagriva là một hoá thân phẫn nộ của đức Avalokiteshvara ( Quan Thế Âm ), theo những khảo cứu thì có tới 108 hình tướng của Hayagriva. Năng lực đặc biệt của ngài là chữa bệnh, nhất là các bệnh về da, thậm chí cả những bệnh về da khá trầm trọng như là bệnh phong. Bệnh này được tin rằng do Naga gây ra ( Naga là loài rồng nhưng có hình tướng giống như rắn, rất thích sống ở khu vực sông nước, ao hồ, biển cả... nd)

Hình tướng đơn giản nhất của ngài thì có một mặt, hai tay và hai chân. Tất cả mọi thứ về ngài đó là khuôn mặt đáng sợ với ba con mắt, cái miệng đang gầm rống đầy những răng nanh, tư thế đứng của một chiến binh, chiếc bụng to lớn ẩn chứa một nội lực phi phàm trong đó. Tay phải ngài vung thanh kiếm để đe doạ đối phương, tay trái giơ lên phụ trợ trong một tư thế đáng sợ, đồ trang sức của ngài đó là những con rắn.



Hayagriva với hình tướng đơn giản

Nét đẹp của ngài lại là những điều đáng sợ nêu ở trên, bởi vì chính cái khía cạnh đáng sợ đó lại là biểu lộ của sự từ bi, chính cái đáng sợ đó giúp ta buông bỏ được bản ngã, và xuyên thủng được màn vô minh....
Palden Lhamo : Vị nữ thần



Palden Lhamo là vị nữ hộ pháp duy nhất trong nhóm 8 hộ pháp lớn của Phật giáo. Ngài là nữ hộ pháp bảo vệ cho chánh pháp ở khắp mọi nơi, bao gồm cả đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà nước Tây Tạng, thủ phủ Lhasa. Đồng thời ngài cũng là nữ hộ pháp cho đất nước Trung Quốc từ triều đại nhà Yuan (Nguyên - thế kỉ 13) cho tới những ngày cuối cùng của triều đại nhà Qing ( Thanh ) đầu thế kỉ 20.

Ở Ấn Độ, Palden Lhamo còn được gọi là Shri Devi. Ngài còn là là nữ thần Okkin Tungri ở miền Bắc Mông Cổ. Ngài cũng được xem như là một hoá thân phẫn nộ của Saraswati ( Biện Tài Thiên-nd ) vị nữ thần của sự học tập, của sự biện tài ( ăn nói ), và của âm nhạc. Một hoá thân khác của ngài là Chamudi, phối ngẫu của Yama. Lại cũng có thuyết nói ngài là phối ngãu của Mahakala.

Là nữ hộ pháp duy nhất trong việc bảo vệ chánh pháp, thế nên tương truyền rằng những thứ vũ khí của ngài vốn là được các thần khác trao tặng. Hevajra tặng cho ngài hai hạt xúc xắc để định đoạt sinh mạng của con người, Brahma tặng ngài chiếc quạt làm bằng lông công, từ Vishnu ngài được tặng hai chiếc đèn sáng rực ( giống như hai viên ngọc toả hào quang-nd ). Một chiếc thì được ngài cài trên đỉnh đầu, chiếc còn lại được ngài đeo vào ngang eo. Kubera, Thần Tài Bảo, đã cho ngài một con sư tử ( trang sức hình sư tử-nd )( trang sức hình con rắn-nd ) và được đeo ở tai trái của ngài. Từ Vajrapani ( Kim Cang Thủ ) ngài nhận một chiếc búa sấm sét. Những vị thần khác ban tặng ngài một con la, được bao bọc bởi bộ da của quỷ Dạ Xoa, và có những con rắn độc quấn quanh bụng. Người ta hay thấy ngài cưỡi con la này đi du hành khắp muôn phương.
và được ngài đeo ở tai phải. Nanda, Thần rắn, đã ban cho ngài một con rắn


Tôn tượng của Palden Lhamo

Ngoài ra còn có một truyền thuyết nói rõ hơn về sự từ bi của ngài. Tương truyền là ngài đính hôn với một vị vua tên là Shenji, người vừa là một vị vua khát máu vừa là một chiến binh bạo tàn, ông ta từ chối hết những lời yêu cầu của Palden Lhamo khẩn cầu ông dừng giết hại dân chúng vô tội. Cuối cùng ngài đành đưa ra một tối hậu thư :

Nếu ko dừng giết hại, bà sẽ giết những đứa con của mình có với nhà vua, để cho ông có thể trải nghiệm về nỗi đau người thân bị giết hại mà ông ta gây ra cho những người khác.


Shenji vẫn không dừng, thế là ngài thực hiện lời đe doạ của mình. Trước cái chết của con trai mình, ông ta đã buộc phải dừng lại.

Ngài hay được thấy mang theo xác của con trai mình trên lưng con la đi khắp nơi. Đây là biểu tượng cho quyết tâm không dừng lại trước bất cứ điều gì để đem lại sự an bình cho tất cả.
Tshangs Pa  ( Phạm Thiên Trắng )

Brahma (Phạm Thiên) , là một vị thần quan trọng nhất đối với đạo Hindu, tuy nhiên đối với Phật giáo thì Phạm Thiên chỉ chiếm một ví trí thứ yếu. Tên tiếng Tây Tạng của Brahma là Tshangs Pa, chúng ta thường biết đến Brahma với hình tượng 4 đầu 2 tay. Nhưng trong Phật giáo Tây Tạng ngài luôn được biểu hiện với màu trắng, 1 đầu 2 tay và được gọi là "Tshangs pa dkar po". Có nghĩa là Tshangs Pa Trắng.



Hình tượng Brahma trong Hindu giáo

Cũng theo như các sadhana, đây cũng là hình tượng của Brahma. Người ta thường thấy ngài ngồi trên lưng con ngựa trắng, giơ cao thanh gươm, đôi lúc có đeo lá cờ sau lưng. Ngài là một vị thần của chiến binh, nhưng không hiện thân quá khủng khiếp và man rợ. Đằng sau chiếc vương miện ngài là chiếc khăn mỏng có chứa cái vỏ ốc ( một trong những biểu tượng cát tường thường thấy của Tây Tạng-nd ). Ngài mặc những bộ quần áo dài tay và "bồng bềnh như mây".

Mặc dù các truyền thuyết đằng sau nguồn gốc của ngài, không có gì không khế hợp với Brahma, song chúng ta có một truyền thuyết khá thú vị:

Ngày xưa khi ngài ra đời, và được đặt tên là Tshangpa karpo. Ngài lớn lên với đầy đủ sự hùng mạnh, ngài thường dạo khắp nơi trong vũ trụ trên lưng một con ngựa vàng.Vào ban ngày thì ngài dạo chơi trên bầu trời, tới ban đêm thì mới đáp xuống. Vào một ngày nọ, ngài đến các cung trời. Sau đó ngài lừa được một nữ thần ( có thể là thiên nữ-nd) tên là Dhersang, và ăn trộm được viên ngọc như ý của thần. Xui xẻo thay, ngài không thể trốn thoát kịp vì bị một vị thần bảo hộ của cung trời này dùng chiếc lưỡi của mình tóm lấy ngài và ném ngài trở về lại mặt đất, lấy lại viên ngọc như ý đó từ tay ngài, cũng đồng thời lấy luôn trái tim của ngài.Hơn thế nữa ngài bị ép phải hứa hôn với nữ thần Dhersang.
Tsangpa
Thất vọng vì sự bại trận của mình, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình của mình trong vũ trụ. Ngài bắt đầu giết tất cả những người thanh niên ở những nơi ngài đi qua, và cưỡng bức những cô gái mà ngài gặp. Một ngày nọ ngài gặp nữ thần Ekajati. Với ý định quấy rầy nữ thần, ngài bắt đầu buông lời ong bướm. Nữ thần Ekajati nổi giận và dùng chiếc khăn tơ lụa của mình đang choàng trên người để đánh ngài.


Ekajati - Bà mẹ khủng khiếp

Bị đánh vào đùi, chân ngài lập tức gãy lìa. Cái đánh của nữ thần ngay lập tức khiến cho ngài giác ngộ và trở thành một trong những hộ pháp của Phật giáo. Cái đánh này không có ý nghĩa là hành hung trên một khía cạnh vật chất. Nó chính là sự tấn công vào các phần tiêu cực, các khía cạnh đen tối của tâm thức và chuyển hoá nó. Bởi vì sức mạnh, năng lực vô biên của ngài được chuyển hướng vào việc bảo hộ và cúng dường cho chân lý, đã khiến ngài trở thành một trong những vị đại hộ pháp của Phật giáo. Trong lịch sử, đây cũng chính là hình ảnh đại diện cho sự hội nhập của tôn giáo cổ của Tây Tạng ( đạo Bon ) vào đạo Phật bởi đạo sư vĩ đại Padmasambhava ( Liên Hoa Sanh ).
Begtse: Thần Chiến Tranh



Người chiến binh man rợ này, vốn là một dạ xoa, là vị thần của chiến tranh ở vùng Trung Á, mặc áo giáp và trang phục của quân Mông Cổ, xuất hiện trong Phật Giáo Tây Tạng vào nửa cuối thế kỉ 16, là hộ pháp cuối cùng gia nhập vào nhóm 8 vị hộ pháp.



Yaksha - Dạ Xoa

Theo truyền thuyết,Begtse, người lãnh đạo của một đội quân động vật,xuất hiện khi Dalai Lama, được mời từ Tây Tạng tới Mông Cổ do vua của Mông Cổ lúc bấy giờ là Atlan Khan ( con cháu của Thành Cát Tư Hãn-nd) để chuyển dổi Phật giáo thành quốc giáo của Mông Cổ.

Biết được việc này nên đức Dalai Lama liền hoá thành Quan Âm Tứ Thủ Avalokiteshvara, vị Bồ Tát của lòng từ bi, hai tay của ngài chắp trước ngực tạo thành ấn nguyện cầu. Bước chân của con ngựa ngài cỡi, in lên trên cát không phải là dấu chân mà lạ thay lại là câu thần chú Om mani padme hum.Tận mắt chứng kiến phép màu này, Begtse liền tin tưởng ngay vào tính ưu việt, sự vượt trội của Phật giáo và tự động quy phục, và chuyển sang Phật giáo. Người ta nói sự quy phục của Begtse chính là hình tượng cho việc chuyển đổi quốc giáo của Mông Cổ thành Phật giáo.



Chân dung của Begtse

Ngài là xuất hiện với đầy đủ các thứ phục trang như các hộ pháp khác, giơ cao một thanh gươm ( cán gươm có hình con bò cạp ) trong tay phải. Tay trái thì nắm một chiếc đầu của kẻ thù màu cam, ta còn có thể thấy ngài giương cung tên cùng lúc đó. Ngài đạp lên xác chết của người đàn ông bằng chân trái, chân còn lại thì ngài dẫm lên cái xác chết của con ngựa. Ba con mắt của ngài đầy sự phẫn nộ,nhìn trừng trừng đủ để đe doạ những kẻ phá hoại chánh pháp.
*
Đôi lời tự sự : Cuối cùng Thiện Duyên đã hoàn tất được bài viết về Bát Đại Hộ Pháp. Thật sự nhân duyên khiến Thiện Duyên gắng sức, chính là muốn góp một phần sức nho nhỏ của mình cho mọi hành giả Phật giáo và nhất là những hành giả của Kim Cang Thừa biết rõ hơn về chư vị hộ pháp. Cũng xem đây như là một món cúng dường của Thiện Duyên và các bạn đồng học đếnTam Bảo, đến dòng truyền thừa,chư tổ, đến đức bổn sư HH18th Dromtug Rinpoche Losang Choekye Pelden và bổn sư HH Gyalwang Drukpa XII của mình...
Xin nguyện chư vị hộ pháp thường hằng hộ niệm tất cả chúng sinh cho tới tận rốt ráo viên thành quả vị.
Do cũng có lấy nguồn tài liệu từ nước ngoài, mà khả năng dịch thuật lại còn có giới hạncho nên nếu có sai sót gì xin mọi người niệm tình bỏ qua.
Mọi sai sót nếu có đều là do người dịch, mọi công đức nguyện hồi hướng tới tất cả chúng sanh.
*

14.3.11

Torrent Demonoid.me Invitations code

Invitations
To invite someone to the site, give him/her one of the following invitation codes, and the account registration address:
http://www.Demonoid.me/register.php?with_invite=1
Please note: To avoid abuse, invitations are limited. Also, if someone you invite gets warned/banned, you might get warned/banned too.

Please do not try to sell your invitation codesIt is against site policy. Thank you!
Invitation code list:

leoshadowX3gnv0mz8ncrsxlnjcqijezhkqil5pkgjmwf
leoshadowX21mwrr2br4z79brhxv9qylorc3r3bguwkms
leoshadowXo37brn3h726bw80lddhly05gw3qhakf6
leoshadowXu5c9fhok0s7kqpx47khec24tanum8jmfjun
leoshadowX8vawn2mzvmjp3oj0skgv7t68h


12.1.11

KINH LĂNG-GIÀ TÂM ẤN

Niệm là vọng giác. Si hoặc là bất giác. Chân như không tánh bất giác vọng động, kiến hoặc vừa sanh liền có vọng giác. Muốn sạch vọng giác thì phải tìm tột chỗ khởi vọng giác. Muốn ngộ bất giác thì cần xét cùng chỗ sanh bất giác. Chừng ấy mới biết Chân như không tánh là mật chỉ của chư Phật, nên phải hỏi trước. Cõi tức là cõi nước. Hóa tướng là tất cả tướng biến hóa trong lục đạo. Trước nói ngoại đạo, sau đề ra Vô thọ, đó là muốn biện sự sai biệt của tà chánh. Vô thọ là Mâu-ni tịch tĩnh, chẳng thọ một pháp, lìa các tướng trạng. Thứ là thứ lớp các địa. Kinh Kim Cang nói “do pháp vô vi mà có sai biệt”.

10.1.11

Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm

 
Hành Trì
Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm
 
 Ta đang khổ, thế giới đang nguy, nên nhớ niệm và chú ý nghe từng chữ theo câu thần chú:
NAM MÔ ĐẠI PHẬT ĐẢNH TÂM CHÚ MA HA TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA. 
Phật dạy : A NAN, đây là “Đảnh Quang Tụ” mầu nhiệm bí mật của mười phương Chư Phật nói ra ! Tất cả mười phương Như Lai do tâm chú này được thành Vô Thượng Chánh Biến Giác. Mười phương Như Lai nương tâm chú này; hàng phục các ma, chế ngự ngoại đạo. Mười phương Như-Lai nương tâm chú này ngồi hoa sen báu ứng thân khắp cõi vi trần. Mười phương Như Lai giữ tâm chú này ở trong cõi vi trần chuyển đại pháp luân. Mười phương Như-Lai trì tâm chú này ở trong mười phương xoa đầu thọ ký. Mười phương Như Lai nương tâm chú này ở trong mười phương cứu vớt khổn nạn cho chúng sanh. Khổ nạn đó như là : địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, ngây điếc ngọng, câm, khổ ghen ghét, khở chia ly, khổ cầu không không được, khổn 5 ấm thạnh suy, các khổ trái ngang, khổ vì cường quyền áp bức, khổ vì giặc cướp binh đao, khổ tù tội, khổ vì nước lửa gió đất, đói khát nghèo nàn… nhờ tâm chú mà tiêu tan diệt hết ! Đồng được giải thoát. 
   Mười phương Như Lai tùy theo Tâm Chú này, đối với mười phương tri thức, với 4 oai nghi cúng dường được như ý. Mười phương Như Lai tụng Tâm Chú này mà thành chánh giác ngồi tòa Bồ Đề, vào cõi niết bàn. Sau khi diệt độ mới được rốt ráo trụ trì Phật Pháp sự. 
Ta nói Phật Đảnh Quang Tụ Bát Đát Ra Chú, tiếng nói liên tục, từ sáng đến tối, trải qua hằng sa kiếp không sao hết được. Ta cũng nói mãi chú danh “Như Lai Đảnh” nầy để cho các ông còn trong hàng hữu học, chưa ra khỏi luân hồi, chí thành phát tâm cầu đắc quả Vô Thượng Cháng Đẳng Chánh Giác. Không nhiếp trì Chú nầy, mà thân tâm có thể rời các Ma Sự lên được Đạo Tràng không bao giờ có chuyện như vậy”. 
Đây là đoạn kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, 136.137/Mật Giáo bộ 1q19 Đại Tạng Đại Chánh Tân Tu, phần quan trọng nhất cho Mật Pháp Tu Trì. 
Tôi, HT Thích Huyền Tôn cảm đức lớn những lời dạy của Đấng Từ Phụ xin dịch ra Việt ngữ, mong tất cả, nếu sợ sanh tử luân hồi, nếu sợ khổ, nếu mong thương cứu lấy bản thân, xót xa với bao khổ đau của Cha Mẹ bà con và chúng sanh. Kính xin các vị hãy chí tâm trì niệm Chú Phật Đảnh. Rồi hồi hướng cho tất cả “Nguyện”, nhất định thành tựu như ý. Xin kính tin lời Bổn Sư dạy. Chấp tay cúi đầu mong nghe cho.  
Viết tại Chùa Bảo Vương, Phật lịch 2554. Việt lịch 4889. Tây lịch 2010
Dịch giả: HT Thích Huyền Tôn
---o0o---
Cập nhật ngày: 01-10-2010

9.1.11

truyện ngắn: TÔI GẶP MA

Khu cư xá Thanh Đa nằm trên bán đảo Thanh Đa ven dòng sông Sài gòn thơ mộng. Nhắc đến Thanh Đa, ai cũng nghĩ đến món cháo vịt nổi tiếng và những dãy quán cà phê ven sông. Thanh Đa đi vào kí ức của mọi người không chỉ bởi đặc sản cháo vịt, bánh tráng Trảng Bàng hay… những đĩa phim quay lén về cà phê Thanh Đa. Nhắc đến địa danh này, nhiều người vẫn còn rì rầm kể cho nhau nghe những câu chuyện… ma bất thành văn bản… Thắm thoắt đã ba năm trôi qua kể từ ngày sư ông và sư phụ lần lượt qui thiên, tôi ít khi về Thủ Đức thăm chùa. Nhiều lần tôi tự nhắc mình phải về chùa thường xuyên hơn. Dù gì đi chăng nữa, nơi đó vẫn còn di cốt của hai người, vẫn còn có sư bá để mình thăm hỏi. Nhưng, mỗi lần nghĩ đến ông đại sư huynh của thầy là y như rằng tôi rùng mình ớn lạnh. Cái ông già khó đăm đăm, mặt ổng lúc nào cũng quạu đeo, hầm hầm như người bị mất của mà không tìm ra kẻ trộm (mô Phật). Đặc biệt là đôi mắt, ông nhìn ai là cứ như soi đến tim gan phèo phổi của người ta. Trong các hàng huynh đệ, không ai dám nhìn lâu vô mắt ổng hết trơn. Nghe nói, ngày xưa ông bế quan luyện Thần Long nhãn suốt 108 ngày. Đến khi xuất quan, người ốm tong teo còn hai con mắt cứ như điện. Ai nhìn thấy cũng sợ.
Không biết thật giả thế nào, riêng tôi đã có lần chứng kiến sư bá nhiếp phục con tà bằng ánh mắt rồi. Hôm đó, từ Biên Hoà có một nhóm người chở theo một phụ nữ ngoài ba mươi tuổi. Nhìn chị ta có vẻ như người bình thường nhưng không hiểu sao lại bị trói thúc ké như tội phạm. Thấy ai nấy ngạc nhiên, người nhà vội giải thích:
- Mấy thầy hổng biết đó thôi. Nó tinh ma quỷ quái ghê gớm. Hồi nãy muốn trói được nó tụi tôi phải nhờ đến sáu người đàn ông khoẻ mạnh áp vật xuống mới thắng đó. Chứ sơ sơ hai ba người xáp lại, nó hất một cái ngã chỏng cẳng luôn.
- Sao tôi thấy nó tỉnh queo mà? – Tôi vọt miệng nói, không kịp nhìn thấy ánh mắt răn đe của thầy.
- Tụi tôi cũng hổng biết nữa. Vừa tới đầu đường vô chùa, tự nhiên nó tỉnh queo như chưa hề bệnh hoạn gì hết.
Người đàn bà bổng nhiên khóc nức nở:
- Mấy thầy ơi, cứu giùm con. Khi không mấy ông này áp trói con lại, rồi đánh đập con. Họ nói con là tà ma quỷ quái. Họ đánh con như vầy nè…
Vừa nói, người đàn bà cúi xuống dùng vai phải hất mái tóc rủ loà xoà trước trán lên. Phía trên thái dương cô ta còn một vết bầm rướm máu. Ai nấy xuýt xoa thương cảm. Thấy vậy, người đàn ông lớn tuổi nhất vội phân trần:
- Tụi tôi có làm gì đâu. Nó vu oan giá hoạ đó. Lúc nãy mọi người áp trói nó, nó hất một cái hai người văng ra rồi chạy lao đầu vào cột nhà. Nếu tui không ôm nó lại kịp, chắc bây giờ đã tẩn liệm xong luôn rồi!
Mọi người con đang nói chuyện thì sư bá tôi bước ra. Đang khóc lóc kể lể, người đàn bà ngó thấy sư bá liền nín bặt. Trông vẻ mặt cô ta có vẻ hoảng hốt. Sư bá tỉnh như không, chẳng thèm ngó ngàng gì đến bà ta, từ tốn bước lại bàn ngồi và thong thả rót trà uống. Ai nấy im bặt nhìn sư bá như chờ đợi. Bầu không khí trong chùa bỗng chùng xuống nặng nề…
Uống xong hớp trà, bất chợt ông ngước mắt lên nhìn người phụ nữ…

Cái nhìn của sư bá cũng bình thường thôi, không trừng không trợn nhưng sao tôi cảm thấy từ trong ánh mắt ấy toát ra một uy lực lạ lùng. Bất giác, tôi lùi lại một bước. Nhìn qua mấy sư huynh đồng môn, họ cũng đã lùi trước từ lúc nào. Chỉ có mình thầy tôi ung dung ngồi đó uống nước với sư bá.
Người phụ nữ bỗng thay đổi thái độ. Trông cô ta có vẻ sợ hãi. Đôi mắt cô láo liêng nhìn qua lại như muốn tìm chỗ thoát. Đoạn, cô cười gượng gạo:
- Ơ hay, cái ông thầy này nhìn tui ghê quá hả!
Sư bá vẫn không trả lời, mắt vẫn nhìn cô ta đăm đăm. Không khí lắng xuống đến nặng nề. Tôi cảm thấy ngực mình như có một hòn đá lớn đang đè xuống. Chợt, sư bá cất tiếng:
- Cởi trói cho nó.
- Dạ, nhưng mà thầy… - người đàn ông lớn tuổi toan nói gì đó nhưng nhìn thấy ánh mắt sư bá liền cun cút làm theo không dám nói thêm lời nào.
Những tưởng người phụ nữ sau khi được cởi trói sẽ vùng chạy. Nhưng không, cô ta vẫn đứng đó ngơ ngác. Nhìn khuôn mặt cô ta lúc đó thật đáng sợ, vừa sợ hãi thê lương vừa căm hờn phẫn uất. Cô ta cứ ngó dáo dác mà chân không hề di chuyển. Sư bá vẫn cứ im lặng ngồi nhìn… Ngay lúc đó, người đàn bà cất tiếng cười lớn ghê rợn:
- Ha ha… thằng thầy chùa này mê tao rồi. Tụi bay thấy không, nó nhìn tao say đắm đấy nhé. Này, nhìn hả, nhìn đi, tao cho mày nhìn.
Vừa nói cô ta vừa ưỡn ẹo thân thể ra vẻ khêu gợi. Tôi thấy người nhà đi theo có vẻ lúng túng.
Sư bá vẫn ngồi im, ngó cô ta đăm đăm. Đôi mắt của ông trong trẻo một cách lạ kỳ.
Về phần người phụ nữ, càng ưỡn ẹo cô ta càng có vẻ bứt rứt như phát cuồng. Chợt cô ta gào lên:
- MÀY CÒN NHÌN HẢ, NHÌN CHƯA ĐÃ HẢ? MUỐN NHÌN THÊM KHÔNG, TAO CHO MÀY NHÌN MÃN NHÃN LUÔN.
Trong lúc đang nói, cô ta lao nhanh về phía sư bá. Mọi người hốt hoảng, tôi thoáng thấy sư huynh Minh Tịnh co tay thành Lôi ấn. Chắc huynh ấy định sử dụng Ngũ lôi phù.
Nhưng, ngoài dự đoán của mọi người. Sư bá vẫn điềm nhiên ngồi nhìn, thầy tôi ngồi kế bên cũng ung dung không kém. Dường như thái độ hùng hổ của người đàn bà ấy không tác động gì đến hệ thần kinh của hai người.
Điều bất ngờ nhất đã xảy ra. Người đàn bà đang lao đến chỗ sư bá đã đứng sững lại như va phải một bức tường vô hình, cô ta loay hoay mãi không thể nào tiến thêm một bước. Tức khí, cô ta cất tiếng chửi:
- Mẹ mày… đồ thầy chùa lửa, đồ dê gái! Dê không được nên ngắm nhìn cho đỡ ghiền hả? Muốn nhìn phải không, tao cho mày nhìn tới luôn.
Nói xong, cô ta đưa tay giật tung hàng nút áo ngực lộ cả áo trong ra. Đám đệ tử tui tôi quay mặt chỗ khác. Người nhà cô ta xấu hổ chạy lại định gài nút áo, cô quay lại hất một cái người nhà té lăn cù như quả banh. Đến lúc này tôi mới thấy sức mạnh kinh hồn của cô ta.
Sư bá vẫn ngồi điềm nhiên nhìn. Nhưng khuôn mặt ông có vẻ nghiêm hơn. mắt ông trở nên sáng long lanh. Người đàn bà cứ đi qua lại trước mặt ông ở khoảng cách hai mét. Cô ta vừa nắm hai vạt áo mở ra khép vào vừa hẩy bụng và ngực về phía sư bá. Nhưng càng làm dữ cô ta càng tỏ vẻ bứt rứt như có cái gì đang thiêu đốt trong người vậy.
Bất ngờ, người đàn bà quỳ thụp xuống gào khóc:
- Thả tao ra, thả tao ra đi. Tao cầu xin mày mà. Làm ơn cho tao đi đi mà…
Sư bá vẫn nhìn lặng lẽ.
Cái nhìn của ông bén ngót như lưỡi dao sắc lạnh xuyên vào da thịt người ta. Tiếng la của người bệnh vang lên bài hãi nghe xé màng nhỉ:

- Trời ơi đừng nhìn nữa! Tha tôi đi, làm ơn tha tôi đi.
Cô ta oằn oại trên sàn như con rắn bị đập đầu, rồi chồm dậy đập đầu xuống đất nghe binh binh. Eo ôi! Cái kiểu này chắc bể đầu chứ không giỡn đâu. Tôi thầm lo trong bụng.
Hai vị tiền bối vẫn ngồi im không nói. Tôi thoáng thấy sư phụ tôi mỉm cười. Dường như ông đã đoán trước được kết quả rồi.
Quả thật như vậy. Người phụ nữ sau vài phút dập đầu đã ngẩng lên, tóc tai rũ rượi, nước mắt ràn rụa. Cô ta lết lại gần sư bá tôi chắp tay van lạy:
- Thầy ơi, thầy tha cho con lần này. Con cầu xin thầy. Xin đừng đốt con nữa tội nghiệp con thầy ơi…
Sư bá quay sang thầy tôi:
- Ông rót giùm tui ly nước cho nó uống đi.
Thầy tôi lặng lẽ làm theo. 
Đón nhận ly nước từ tay thầy tôi, người bệnh uống một cách miễn cưỡng.
- Ngồi xuống đó – Sư bá ra lệnh, người phụ nữ làm riu ríu.
- Ngươi có ân oán gì với cô gái này mà đi theo ám người ta vậy hả?
- Dạ, thưa thầy – thái độ cô ta có vẻ bình tĩnh lại – con là Đặng Duy Nam, vốn là chồng sắp cưới của Như (*tên cô gái). Ba năm trước, lúc tụi con chuẩn bị làm đám cưới thì con bị tai nạn giao thông mà chết. Như đã không nghĩ đến tình cảm của con mà còn bắt bồ với thằng khác. Bây giờ tụi nó sắp cưới nhau. Làm sao con tha thứ cho được.
Sư bá tôi tỏ thái độ nghe chăm chú. Đoạn, ông khẽ cúi đầu thở dài:
- Nhân quả nghiệp báo. Biết bao giờ mới dứt đây.
Ngước mắt nhìn người phụ nữ giờ đây đang ngồi xếp bằng tròn thổ thức dưới đất, ông hỏi:
- Ngươi có biết là vài hôm nữa Quỷ Vô thường đến bắt ngươi về không?
- Dạ … biết…
Sư bá nạt ngang:
- Đã biết sao còn sanh chuyện cho thêm tội hả?
Cô gái cúi đầu tránh ánh mắt nghiêm khắc của ông, lí nhí trả lời:
- Thầy ơi, con không cam lòng… con yêu Như mà thầy…
- Vậy là người định bắt cô gái này theo người chứ gì?
- Dạ…
- Đúng là vô minh!- sư bá quát lớn khiến mọi người giật thót mình - Thọ mạng người ta còn, ngươi bắt được à. Bắt rồi, ngươi có sống được với người ta không chứ. Nghiệp chồng nghiệp, phen này ngươi khó đầu thai rồi.
- Thầy ơi, vậy bây giờ làm sao hả thầy?
- Nếu người bằng lòng rời khỏi thể xác, ta sẽ nói gia đình cô ta lập trai đàn ba ngày siêu độ cho ngươi. Nhờ các thầy trì tụng, mong rằng ngươi sẽ được giải bớt nghiệp chướng đời này.
- Nhưng… còn Như thì sao?
- VÔ MINH – sư bá hét lớn - VẪN CÒN QUYẾN LUYẾN KHÔNG MUỐN RỜI PHẢI KHÔNG?
- Dạ… con…
- Ngươi không chịu tỉnh ngộ, ta nhốt ngươi ba ngày rồi triệu Vô thường quỷ đến bắt đi. Lúc ấy ngươi không trách gì ta được nha!
- Dạ... thưa thầy... con chịu…

… Sau sự việc ấy, sư bá tôi nổi danh như cồn, tiếng tăm vang xa hơn cả sư ông. Nhiều người bệnh từ khắp nơi: Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vũng Tàu, Phan Thiết… cũng lặn lội tìm đến chữa trị. Ngày ấy, tôi thường xuyên về chùa nên chứng kiến và học hỏi rất nhiều từ ông đại sư huynh của thầy mình…Nhớ đến sư bá là bao nhiêu kỉ niệm lại ùa về trong tâm trí… Tôi khẽ lắc lắc cái đầu như muốn xua tan hoài niệm. Hôm nay tôi phụ trách city tour. Một đoàn khách từ Quảng Bình vào tham quan thành phố ba ngày. Đây cũng là cán bộ hành chánh nên giá tour chẳng có bao nhiêu. Phòng điều hành quyết định đưa khách về nghỉ tại Nhà nghỉ Công đoàn Thanh Đa. Nghĩ ra cũng tiện, tiện nghi cũng không đến nỗi tệ, cách phục vụ đúng kiểu bao cấp (chắc cũng quen thuộc với khách), không gian cũng yên tĩnh…
Ngày thứ nhất, đón khách từ cầu Bình Triệu. Tôi đưa thẳng về nhà nghỉ nhận phòng rồi ăn chiều. Những công việc lặt vặt của nghề thiết tưởng không cần phải kể ra làm gì cho dài dòng. Tôi xin kể vào sự việc chính…
Tối đầu tiên tham quan chợ Bến Thành và dạo phố đêm, nhiều vị khách đi lạc không biết đường về điểm tập kết. Tôi phải tìm mướt mồ hôi mới gom lại đủ. Về đến Nhà nghỉ Thanh Đa thì đồng hồ đã chỉ 11g35’. Giờ này còn về nhà gì nữa! Tôi quyết định ở lại để sáng mai đưa khách đi Củ Chi sớm. Các chị nhà phòng cũng ưu ái xếp cho tôi căn phòng tiện nghi ở cầu thang số 12 (gần cổng lớn). Những tưởng sau những giờ mệt mỏi chạy rã giò tìm khách, tôi sẽ ngủ một giấc ngon lành. Nhưng không, thật khó ngủ. Cố nhắm mắt dỗ ngủ mà lòng cứ tỉnh như không. Đôi mắt cứ trao tráo nhìn trần nhà như không muốn khép. Tiếng quạt trần quay vù vù làm tôi khó chịu. Tắt quạt một lát thấy nóng nực lại chồm lên mở. Tôi cứ loay hoay, bứt rứt. Định ngồi dậy luyện tập một lát nhưng lại làm biếng. Kể từ khi sư ông và thầy mất rồi, tôi cũng trở nên chây lười, chễnh mãng việc tập tành. Đã vậy tôi còn đi theo lũ bạn trong công ty đi hát hò nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng. Riết rồi tôi không biết mình có còn là dân huyền môn hay không nữa. Hình như những gì trong quá khứ đã phai nhạt dần khi hiện tại mở ra quá nhiều cám dỗ. Tôi bắt đầu thích cái cảm giác ngồi đến hai ba giờ sáng ở một quán nhậu ven sông để lắng nghe nhịp thở của cuộc sống về đêm, lắng nghe mạch máu căng ra vì chất men quá liều, nghe hơi lạnh tràn về khắp mọi nẻo giăng giăng. Tôi cũng bắt đầu để ý đến một chút thời trang của các cô trong công ty, cũng chịu khó pha trò, nói tục… Tôi đã thay đổi không còn là mình cho đến đêm nay…
Không muốn tập luyện, tôi chuyển sang dỗ ngủ bằng cách đếm. Đếm đến mấy ngàn số rồi tôi vẫn cứ trơ trơ. Bực mình, tôi ôm mền ra phòng khách nằm ngủ. Kéo mấy cái ghế salon lại sát nhau, tắt đèn, mở quạt trần vừa đủ mát, tôi hạ tấm nệm dựa lưng xuống làm gối và khoan khoái kéo mền lên tận cổ để ngủ. Quả thật ở ngoài phòng khách mát mẻ hơn nhiều. Tôi lim dim tận hưởng cảm giác thoải mái rồi lâng lâng vào giấc ngủ…
Bất ngờ ... cái mền tôi đang đắp bỗng nhiên tụt xuống như có người đang kéo...
Giật phắt mình, tôi chụp cái mền ngồi bật dậy ngó dáo dác… Chung quanh im lặng như tờ, chỉ có tiếng quạt máy quay vù vù trong không gian.
Ngồi im một lúc lâu, thấy không có động tĩnh gì, tôi lại nằm xuống kéo mền lên ngực ngủ tiếp…
Vừa lịm người đi, cái mền đang đắp trên người tôi bị ai đó giật phắt một cái rơi xuống đất. Thất kinh hồn vía, tôi chồm dậy la lớn: “AI ĐÓ?”. Đáp lại câu hỏi của tôi là không gian tối om, tĩnh lặng.
Tim đập thình thịch, tôi rón rén chạy đến góc phòng bật công tắc đèn. Xung quanh sáng loà ánh đèn néon trắng. Mọi thứ vẫn ổn, chỉ có cái mền của tôi là không bình thường. Nó bị quăng vào góc tường, cách chỗ tôi nằm hơn một thước. Vừa sợ vừa giận, tôi co tay thủ Kiếm quyết bước tới nhặt cái mền lên. Xung quanh vẫn tĩnh lặng. Nghe hơi ớn lạnh, tôi để luôn đèn sáng, nhảy lên salon nằm.
Lần này đừng hòng mà ngủ.
Tôi nằm nghiêng chờ đợi, tay phải nắm luôn Kiếm quyết, bụng thầm nghĩ: “Tụi bây định giỡn mặt với thầy hả con. Đứa nào ra ông cho một kiếm là tan nát hồn phách luôn!”.
Một phút…
Hai phút…
Năm phút…
Mười phút…
Chẳng có động tĩnh gì.
Tôi mệt mỏi bắt đầu lim dim mơ màng. Bỗng…
“Ké…é.. é..t”
Hai chiếc ghế salon được tôi kê làm giường nằm bị kéo thẳng về hai phía. Tôi rơi xuống đất đánh “bịch” một cái đau điếng hồn. Hoảng quá, tôi lồm cồm bò dậy quơ vội cái mền chạy vào phòng đóng cửa lại...
Chui tọt vào trong mùng, tôi không quên mở đèn sáng choang. Tim đập liên hồi trong cảm giác bàng hoàng, sợ hãi, tức tốI, hổ thẹn. Ai đờI làm thầy chữa bệnh trị tà, giảI vong từ bao năm qua, vậy mà đến lúc này bị ma quỷ phá phách mớI xấu hổ chứ!
Tôi ngồI thừ trong mùng một hồI lâu vớI ngổn ngang tâm trạng. Nhìn xuống đồng hồ, cây kim giờ đã chỉ đúng số 1. Tôi uể oảI chắp tay đọc bài kinh Phật Tổ:
“Á rá hăn – sam ma sam buol đô
Quýt chá chá rá ná
Sam ban đô
Su ga tô
Lô ca quyt du
An nu ta rô
Pu ri sa đam
Ma sa ra thi
Sat tha đê va
Ma nu sa năng buôl đô
Pa ga va ti”
 MớI đọc có 2 biến mà mắt tôi muốn sụp xuống. Buồn ngủ kinh khủng. Ráng đọc xong đến biến thứ ba là tôi rũ cả ngườI ra. DuỗI chân ra ngáp dài một tiếng, tôi ngả lưng xuống nệm, vặn vẹo ngườI mấy cái khoan khoái. Cảm giác nặng nề lúc nãy biến mất. Tôi xoay ngườI lạI ngay ngắn và thiếp đi…
… Sao mà tôi vẫn thức thế này! mắt vẫn mở trao tráo nhìn trần nhà. Một cảm giác lạnh lẽo bao trùm lấy căn phòng, cái lạnh phủ dần từ hai bàn chân, lan toả đến đầu gối. Tôi cảm thấy rất rõ từng thớ thịt tôi ơn ớn rồI tê lạI khi hơi lạnh đi qua. Biết có chuyện, tôi cựa mình ngồI dậy. Nhưng, tay chân tôi không còn điều khiển được theo ý mình nữa rồi. Hơi lạnh lan đến bụng, cảm giác nặng nề khó thở tràn ngập, ngực tôi nặng như đá đè, phổI cứng lạI không thở được. Và tôi thấy…trong ánh sáng trắng bệch của ngọn đèn néon, hai bóng ngườI đi xuyên qua cánh cửa phòng ngủ bước vào trong. Rõ ràng họ đi rất bình thường, nhưng không có một cản trở ngăn ngạI nào trong bước đi của họ. Đó là hai ngườI đàn ông, một già một trẻ. Gương mặt xanh xao lạnh lùng vô cảm. Đôi mắt đứng tròng không hề chớp cứ nhìn chăm chăm vào mặt tôi. Cả hai đều mặc bộ đồ trắng, thứ quần áo bệnh viện thường mặc cho bệnh nhân…
Nói thì dài nhưng sự việc diễn ra nhanh chóng. Họ bước xuyên qua cái giường ngoài (mỗI phòng ngủ của Thanh Đa có hai giường, tôi nằm giường trong, sát vách tường) và tiến đến ngay chỗ tôi nằm. NgườI trẻ đứng phía dướI chân, ngườI già đứng ngang ngườI tôi. Họ cúi xuống.
Giá mà tôi có thể hoá thành khói biến đi khỏI đôi mắt của họ, Nó đờ đẫn và sâu hun hút như cánh cửa địa ngục, khuôn mặt xanh mét của một xác chết. Cả hai thò tay ra…
Bốn cánh tay cùng lúc xuyên qua chiếc mùng tuyn mỏng và dần dần hạ xuống cổ tôi. Tôi nhìn thấy rõ những cẳng tay gầy guộc, khẳng khiu không có một chút sinh khí nào. Các bàn tay đè chặt làm tôi không thở được, hơi lạnh chết chóc từ những ngón tay thít chặt trên cổ truyền sang cơ thể, thấm vào trong mạch máu làm tôi cứng đờ người. Tôi vùng vẫy trong tuyệt vọng, miệng thốt ra những tiếng ú ớ vô nghĩa. Hai bóng ma vẫn trơ trơ vô hồn, đôi mắt sâu thẳm của họ mở ra to dần thành hai hố đen sâu hun hút, tôi thấy trong đó là vòng xoáy trôn ốc cuốn tôi vào. Đầu óc quay cuồng, ngực không còn thở được, tôi thở dài: “Vậy là hết…!”
Bỗng nhiên…
Một tiếng vỗ bàn vang lên đánh “RẦM” như tiếng sấm. Nghe như tiếng vỗ bàn quen thuộc của sư bá tôi khi nhiếp phục con tà.
Tôi giật nảy mình. Hai bóng ma mờ dần, mờ dần rồi tan biến như sương khói.
Cảm giác lạnh lẽo khó thở cũng giảm nhẹ dần…
Tôi chồm dậy. Đèn néon vẫn sáng, chiếc quạt trần vẫn quay nhè nhẹ trên cao. Xung quanh yên ắng đến lạ kỳ. Tôi bần thần không biết là mơ hay thật. Nhưng có điều chân tôi vẫn còn cảm giác lành lạnh không bình thường. Tim vẫn còn đập thình thịch trong lồng ngực. Gương mặt hai người đàn ông lúc nãy vẫn còn lở vởn trong đầu. Ngay lúc này, khi kể lại câu chuyện, trước mắt tôi như vẫn hiện rõ mồn một hai khuôn mặt ấy.
Không có thờI gian suy nghĩ nữa. Tôi lập tức lấy gốI và mền kê làm toạ cụ, xoay mặt về hướng Tây Nam kết ấn Chuẩn Đề bố tự hộ thân và bắt đầu trì tụng theo phép Sư tử Hống:
“AUM – CHA – LE – CHU – LE – CHAN – DI – SVA – HA”
Trong lúc trì, tôi quán tưởng mình hiện tướng phẫn nộ (mà làm sao không “phẫn nộ” được cơ chứ! Làm thầy mà để ma giỡn mặt có đáng giận không!), tám tay tôi cầm đủ tám món binh khí :KIẾM – KÍCH – BÚA – MÓC CÂU – BÀNG BÀI – CHÀY ĐỘC CỔ - CHÀY TAM CỔ - VÒNG KIM CANG.
Tôi trì với tất cả sự tức giận, sợ hãi và xấu hổ. Đã lâu lắm rồi tôi mới có lại sự nhất tâm như thế này. Tiếng trì tụng ban đầu còn run rẩy, sau cứ to dần, to dần.Tôi cũng thấy mình cũng to dần như phiến đá trên Vồ Thiên Tuế của núi Cấm. Toàn thân tôi bốc lửa…
Lửa cất cao ngọn, từ trong thân tôi toả ra xung quanh rồI đốt trụI tất cả - kể cả tôi.
Tôi ngồI không biết bao lâu. Nhưng khi mở mắt ra xả đàn thì ngài cửa sổ trờI đã mờ mờ sáng. Toàn thân tôi ướt đẫm mồ hôi. Cái mền kê làm toạ cụ và phần nệm giường cũng thấm mồ hôi ướt sũng.
Tôi chà nóng hai tay rồI xoa bóp toàn thân cho thông máu. Thân thể tôi lúc ấy nhẹ nhàng và sảng khoái lạ lùng. Có điều… toàn thân tôi bốc ra mùi thúi kinh khủng, Nó thum thủm nặng mùi như xác chó mèo chết sình. Lúc đầu tôi còn tưởng ngoài cửa sổ có con chuột chết nào đó. Nhưng sau khi tìm kiếm một hồI, tôi giơ tay lên ngửI thì… Oẹ! mùi thúi xộc thẳng vào mũi xông lên tớI óc làm tôi muốn ói vọt ra. Tôi vộI vàng lau khô mình rồI nhảy vào nhà tắm. Mất gần ba mươi phút kỳ cọ tắm rửa, tôi mớI thoát khỏI sự ám ảnh của mùi hương độc đáo ấy.
Thả bộ ngoài vườn hoa nhà nghỉ Thanh Đa trong buổI sáng trong lành, tôi mớI cảm nhận hết giá trị của cuộc sống. Thế này mớI là hưởng thụ đây chứ! Chợt nhớ, đã lâu lắm rồI tôi không đi dạo buổI sáng. Tôi nhớ lạI những ngày ở chùa, sáng sớm thầy tôi đã bắt thức dậy đi kinh hành quanh khuôn viên chùa. Lúc ấy là những ngày vui sướng và an lạc nhất...
Từ sư phụ, tôi nhớ đến sư bá. Lâu lắm rồI tôi không về Thủ Đức. Một cảm giác mong nhớ tự dưng trào lên mãnh liệt đến nỗI tôi muốn đằng vân trở về chùa. MỗI bước chân đi của tôi kéo theo bao nhiêu hoài niệm. Nó cứ như những đợt sóng lòng dồn dập vỗ vào tâm trí…
CuốI cùng, tôi quyết định bỏ tour Củ Chi. Sau khi nhờ được thằng bạn trong công ty dẫn tour giùm, tôi nói vài lờI giả lả khách sáo vớI mọI ngườI trong đoàn và đi ngay, bỏ cả ăn sáng.
Từ Thanh Đa đi về Thủ Đức cũng không xa lắm. Vượt qua cầu Bình Triệu rẽ phảI cặp theo con đường song song vớI tuyến đường sắt, tôi về đến chợ Thủ Đức. Con đường này lâu lắm rồI tôi chưa đi ngang. Chính xác là từ sau ngày thầy tôi mất…
Con đường vào chùa cũng không thay đổI gì mấy. vẫn là những ruộng rau muống nốI tiếp nhau, vẫn là những hàng cây xanh mát mắt. Đây rồI, cánh cổng chùa bằng gỗ cũ kỹ nằm khiêm tốn dướI tán lá bồ đề rợp mát. Cổng vẫn mở rộng như ngày sư ông tôi còn tạI thế. Không khí tĩnh lặng và vắng vẻ quá. Tôi bâng khuâng nhớ đến hai câu đốI từng đọc ở Tịnh xá Trung Tâm:
“Thiền môn rộng mở ít ngườI đến
Cửa khám then cài lắm kẻ vô”
Sợ làm ồn, tôi xuống xe ở cổng và dắt bộ vào. Băng qua sân chùa còn rơi vãi ít chiếc lá đa khô, tôi dẫn xe vào vườn. Một chú tiểu trạc mườI sáu mườI bảy tuổI đang xách nước tướI cây. Nghe tiếng động, chú quay lạI nhìn tôi chăm chú. Tôi chưa kịp hỏI, chú đã nở nụ cươi tươi nói trước:
- Sư huynh tên Dũng phảI hôn?
- Đúng rồI, sao chú biết? – Tôi ngạc nhiên hỏI lại.
Chú tiểu vẫn cườI:
- Sư phụ có dặn, nếu sư huynh đến thì lên thất gặp sư phụ.
- Thất nào? Có phảI chỗ của sư ông lúc trước hôn.
- Dạ đúng rồi. Sau khi khi sư tổ viên tịch, sư phụ dọn lên ở trên đó luôn để tiện việc nhập thất.
- Vậy sao này sư bá không chữa bệnh nữa sao?
- Dạ cũng có, nhưng sư phụ chọn ngườI dữ lắm. Có duyên ông mớI chịu chữa. Bằng không, sư phụ kiếm cớ tránh mặt hết.
- Chà, sau này ông khó khăn quá vậy ta.
- Không phải. Sư bá không muốn tạo nghiệp nữa. HồI sư tổ viên tịch, ông cũng bị hành hết ba ngày mớI hoá được. Lúc đó, các thầy ở các chùa khác đến tụng kinh cầu nguyện, sư tổ đâu có cho. Ông nói, ba chục năm tạo duyên tạo nghiệp gây ân chuốc oán vớI cõi vô hình, bây giờ bị đình trệ ba ngày có là bao. Ông chỉ biểu sư phụ làm phép giảI hết các sắc thần, sắc binh mà trước đây ông mượn để làm việc…
- HồI sư ông bị bệnh, tôi kẹt tour miền Trung về không kịp. Có nghe Minh Tịnh kể lạI nhưng không rõ lắm…
- Sư tổ bị làm mệt suốt ba ngày đêm, ai nấy lo đến rơi nước mắt mà không biết phảI làm sao. Chỉ có sư phụ kề cận trì chú trợ lực cho ông, còn mấy đứa tụI đệ chỉ niệm Phật vòng ngoài.
- Ủa, vậy ra chú đi tu mấy năm rồI à. Vậy mà tôi hổng biết chú.
- Làm sao sư huynh biết được. HồI sư thúc mất cho đến bây giờ, huynh có về chùa được mấy lấn đâu. Về thì huynh chạy lên thất sư tổ ngồI miết, sau đó chạy qua phòng sư phụ ngồI nữa, huynh có để ý đến ai đâu.
Nghe đến đây, tôi khẽ cuốI đầu xấu hổ. Chú tiểu nói đúng. Tôi tệ dần từ sau khi thầy tôi mất…
- Sau khi sư tổ viên tịch, sư phụ không muốn chữa bệnh nữa. Khi nào gặp ngườI hữu duyên có thể tạo phước sau này, sư phụ mớI ra tay thôi. ĐốI vớI ngườI khác nhờ vả, khách thường thì sư phụ bế quan, khách VIP thì sư phụ đi lánh nơi khác. Riết rồI ngườI ta nản không muốn ghé nữa.
Tôi thở dài:
- Thần thông như sư bá mà không giúp ngườI thật là uổng phí.
- Sư phụ nói, Phật độ hữu duyên nhơn. Ngày xưa, trước khi độ ngườI, đức Thế Tôn thường nhập định quán chiếu nhân duyên các đờI của ngườI ta rồI mớI bắt đầu hoá độ. biết được căn duyên mớI hoá độ được tận gốc. Bây giờ, ngườI ta tu Tâm thì ít tu Tướng thì nhiều – tu Huệ thì ít tu Phước thì nhiều – tu Thật thì ít tu Giả thì nhiều – Chân thành thì ít LợI dụng thì nhiều… trợ duyên cho những con ngườI ấy là tự chuốc thêm phiền não, khó lòng thoát khỏI sanh tử luân hồi. Thôi thì, chùa trồng gì ăn nấy, không cần nhờ vả vào những đồng tiền bất chính của những ngườI giả vờ tin Phật. Hộ Pháp sẽ không bỏ ngườI tu …
- Vậy là sau này sư bá thường nhập thất lắm hả?
- Mô Phật. Một tháng sư phụ nhập thất một tuần. Những tháng Hạ, sư phụ không đi Kiết Hạ như các thầy khác mà vô thất ngồI luôn. Còn những ngày không nhập thất, sư phụ ngồI thiền định một ngày bốn thờI Tý Ngọ Mẹo Dậu, mỗI thờI khoảng hai tiếng đồng hồ.
Chỉ có hôm nay hơi lạ. Sư phụ mớI nhập thất có hai ngày thì sáng này ông dậy dặn đệ nếu có sư huynh nào tên Dũng đến chùa thì biểu lên gặp ông…
“Như vậy sư bá biết mình đến hôm nay!” – Tôi thầm nghĩ và càng kính phục thần thông của sư bá. Giá mà tôi có được một chút của ông thôi thì… Đang nghĩ vẩn vơ, tiếng nói của chú tiểu làm tôi giật mình trở về thực tạI:
- Sư huynh lên đi, đừng để sư phụ chờ.
- Ờ há! Mãi nói chuyện mà tôi quên mất. À, mà chú pháp danh gì vậy?
- Mô Phật, sư phụ đặt pháp danh cho đệ là Minh Trí.
Thì ra, hàng đệ tử của thầy và sư bá đều đặt chung chữ Minh. Tôi cũng có pháp danh là Minh Thông, nhưng ít ai gọI đến trừ thầy tôi. Có lẽ tạI con ngườI tôi còn nặng thế tục quá chăng?
Vừa nghĩ ngợI tôi vừa leo lên thất của sư bá. Nói là thất chứ thật ra là phần sân thượng phía sau chùa. Trước đây sư ông về cảI tạo lạI, che mái và ngăn làm hai. Một nửa làm thất và một nửa làm sảnh. Ở ngoài sảnh thờ năm đạo lệnh phù Bàn Cổ bằng vảI vàng. Nét phù được vẽ bằng bút lông đạI tự chấm châu sa và son tàu đỏ thắm. Đó là nơi huynh đệ tôi thỉnh thoảng lên tu luyện theo lệnh của sư ông.
Tôi leo lên đến nơi, nhìn thấy mọI thứ vẫn như xưa. Không kịp nghĩ ngợI gì vì sư bá tôi đã ngồI đó tự lúc nào. Nhìn cái dáng gầy gầy ngồI khoan thai bên cái bàn gỗ uống trà, tôi xúc động muốn trào nước mắt. Tôi bước nhanh đến chỗ ông ngồI, quỳ sụp xuống thổn thức:
- Thưa thầy… - Chỉ có hai tiếng thôi, tôi hết biết nói gì.
Tôi quen gọI sư bá là thầy từ khi thầy tôi dọn nhà về Thủ Đức sống cạnh chùa vớI sư ông (xem “Ngũ Lão Bàn Cổ lệnh phù”).
Sư bá nhìn tôi im lặng chẳng nói năng gì. Ánh mắt ông toát lên vẻ gì đó vừa nghiêm nghị vừa từ ái. Tôi trang trọng đảnh lễ ông bốn lạy. Ông ngồI tĩnh tạI không hề tỏ thái độ nào.
Lạy xong, tôi ngẩng nhìn lên, sư bá chỉ tay vào cái ghế lớn bên cạnh bàn ra dấu tôi ngồi. Nhìn cái ghế còn lớn hơn ghế ông ngồI, tôi rụt rè từ chốI và chạy lạI phía bàn thờ lấy cái ghế đẩu nhỏ hơn đặt xuống cạnh ông.
Sư bá khẽ gật đầu, lạI chỉ tay vào tách trà còn đang bốc khói để sẵn tự lúc nào ở trên bàn. Tôi không hiểu làm sao mà sư bá biết tôi đến lúc này mà rót trà để sẵn.
- Trà nguộI bớt rồI đó, con uống đi. – Lúc này ông mớI mở miệng.
Tôi suýt rơi nước mắt. Sư bá còn nhớ rõ tính tôi không thích ăn uống những đồ quá nóng. Ông quan tâm đến tôi như vậy, còn tôi thì…
Rón tay cầm ly trà lên khẽ nhắp một tí, tôi nghe tỉnh cả người. Mang tiếng là nước trà chứ thật ra chỉ là nước gạo lức rang vàng. Mùi thơm thoang thoảng của gạo rang làm tôi nhớ lạI những ngày xưa, lúc tôi bị đau bụng. Gần một tuần lễ tôi chỉ uống nước gạo rang này cầm hơi… Sư phụ tôi thường đùa tôi: “ Uống nước này đúng một tuần là con thoát thai hoán cốt luôn đó nghe!”.
- Thưa thầy … - Tôi rụt rè toan nói thì sư bá khoát tay.
- Thầy biết hết rồi.
- Sao thầy biết được ạ? - Vừa hỏI xong tôi mớI sực nghĩ mình hỏI quá thừa. Một tia sáng loé lên trong đầu tôi. - Vậy là hồI hôm này thầy đã…
Sư bá khẽ gật đầu, hơi mỉm cườI vớI tay lấy tách trà đưa lên miệng.
Thì ra là vậy. Tiếng vỗ bàn hồI hôm là do sư bá dùng phép cứu tôi. Chả trách tạI sao bỗng dưng ma quỷ rủ nhau biến mất sau tiếng động trong đếm ấy.
- Uống trà đi! - Tiếng của sư bá vang lên cắt ngang luồng suy tư vẩn vơ của tôi. Tôi vội vàng đưa tách trà lên miệng hớp một cái cạn sạch rồi với tay đặt lại lên bàn. Sau vài giây rụt rè, tôi hắng giọng hỏi ông:
- Thưa thầy, con …
- Con thắc mắc vì sao thầy biết phải không?
- Dạ, con… - tôi cứ ấp úng không biết phải hỏi thế nào cho phải.
Khẽ hớp thêm một ngụm trà, sư bá nói:
- Hồi thầy con mất, ổng có gửi lại mấy đứa con cho thầy chăm sóc. Mấy năm qua, sư huynh Minh An của con bỏ đạo theo đời xem như hết phương trở lại, sư huynh Minh Tịnh của con thì chuyên lo tu luyện khá bền bỉ, thầy cũng không phải lo âu. Chỉ có mình con… - nhìn tôi khẽ thở dài, ông nói tiếp – con cứ lửng lửng lơ lơ, nửa đời nửa đạo. Đường thẳng không đi, cứ lạng bên này, tấp bên nọ, lúc chuyên cần hôm sớm, lúc giãy đãy biếng lười. Thầy làm sao yên tâm được.
Tôi cúi đầu không dám nhìn sư bá. Ông nói như đi từ trong bụng tôi đi ra, khiến tôi có cảm giác mình làm bất cứ điều gì cũng bị ông nhìn thấy. Nghĩ đên đây bất chợt tôi điếng hồn… nhớ lại mấy bữa trước tôi nghe lời rủ rê của thằng Huỳnh đi uống bia ôm đến quá nửa đêm !!!
Giọng sư bá vẫn cứ đều đều trầm ấm:
- Hôi hôm, chư thần mách bảo con đang bị cô hồn khuấy phá, thầy nhân dịp này muốn giúp con trở lại con đường cũ…
Tôi không kịp giữ ý tứ, vội xen ngang:
- Thầy cho con hỏi cái phép hồi hôm là phép gì vậy thầy?
- Cái thằng… cái thói học nghề vẫn không bỏ, gặp đúng hệ là sấn tới – sư bá tôi cười nhẹ - thầy dùng câu :“Ki yắc bút ta tu - giắc thắc ki yắc. “
- Ủa, cái câu này dùng để hộ thân tránh người khuất mặt phá phách khi đến những nơi có nhiều âm khí mà thầy?
- Vậy hồi hôm phá con là người gì – sư bá lại vừa cười vừa lắc đầu.
- Nhưng mà…
- Nhưng cái gì? Học không đến nơi đến chốn còn cãi lại. Chỉ một câu chú, cách sử dụng cũng nhiều cái diệu dụng khác nhau. Cái này, khi đọc phải vỗ bàn…
Sư bá mất gần hai mươi phút để ôn lại các bài kinh Nam Tông và giảng lại những chỗ diệu dụng trong lúc sử dụng các câu kinh ấy.
- Mấy câu kinh này anh em tụi con đọc suốt, vậy mà đến bây giờ mới hiểu.
- Chỉ có con bây giờ mới hiểu thôi, Minh Tịnh nó hiểu và sử dụng từ lâu rồi. Cứ lo chuyện đời nhiều vô, có ngày con quên sạch hết những gì mọi người dạy con. Hừ! Chỉ có vài vong linh lưu lạc mà con còn không tự cứu mình được… vậy mà thuở xưa còn xách gói đi chữa tà…
Biết sư bá không giận, nhưng tôi vẫn cúi gằm đầu xuống vì xấu hổ.
- Việc con về chùa hôm nay cũng đủ chứng tỏ con còn chút cơ duyên. Đã đến thì phải ở lại đây ăn cơm, chiều rồi hẵng về. Thôi, con ra sau giếng tắm cho sạch rồi lên chánh điện cúng ngọ với Minh Trí. Nói Minh Trí đưa tạm cái áo của thầy để mặc…
Ngày hôm đó, tôi chìm trong không gian tĩnh mịch của ngôi chùa, những sợ hãi, lo âu, toan tính dường như đã chạy hết ra ngoài cổng…
Cho đến giờ, tôi vẫn thầm cảm ơn mấy con ma vì nhờ nó, tôi mới có cơ hội trở về với ngày xưa…

MỘT CÕI ÂM DƯƠNG

(ST) Chiều xuống nhanh, cái ánh sáng vàng vọt mặt trời xuyên qua tàng cây trứng cá rọi xuống chiếc võng tôi đang nằm. Những cơn gió nhè nhẹ thổi rung cành lá, từng đốm sáng lấp lánh nhảy múa quanh võng tôi như trêu ghẹo.Tia sáng đã nhạt rồi, không còn cảm giác gay gắt như lúc nãy. Giá như trước đây, giờ này tôi đã leo lên sân thượng luyện mặt trời. Mới nghĩ đến thôi, cả người tôi bỗng chạy rần rật như điện chạy, trong đầu tôi vang lên ong ong câu chú “Án thiết toà thần lai ứng hiện…”. Nhưng tôi liền gạt phắt sang một bên không muốn nhớ tới. Giờ đây, những tia sáng yếu ớt này không còn đủ ma lực quyến rũ tôi như trước nữa. Tôi bỏ tất cả, kể từ cái ngày định mệnh ấy…
Đó là cái ngày đứa em trai út của tôi bị tai nạn giao thông mà chết. Tôi không có mặt ở nhà để được nhìn mặt em lần cuối. Đâu có ai hiểu hết nỗi đau khổ của tôi, một người làm thầy, đoán biết khí số của em mình đã tận mà không cách gì cứu vãn được. Dù sư công tôi có khuyên nhủ rằng đó lá định số, nhưng tôi vẫn không cam lòng. Ngày mồng Năm tháng Năm, nhận được điềm báo tử, tôi tính ra điềm báo ứng vào tháng Sáu. Tôi vội vã trao cho em tôi bài kinh Tổ, chú hộ mạng , cả bức tượng Lục Tổ Magaham mà sư công tôi bỏ ra 21 ngày chú nguyện tơm phép. Tôi bắt buộc nó mỗi ngày phải thay tôi thắp nhang trì tụng, không được phép cởi dây chuyền và mặt tượng, không được uống rượu bia…Tôi thắp sẵn ngọn đèn bổn mạng của nó trên bàn thờ, ngày đêm canh chừng không cho đèn tắt… Vậy mà nó vẫn rời bỏ gia đình, bỏ cuộc đời này một cách dữ dội và đau đớn…
Bước sang ngày mồng Một, tôi kẹt đưa đoàn khách đi miền Tây ba ngày. Trưa hôm đó, một con bướm nhỏ bay vào trong bóng đèn và chết cháy, ngọn đèn cũng tắt theo. Tối hôm đó, vì lỡ uống rượu bia với đám bạn cũ, em tôi không dám đeo tượng . Nó cũng không dám đọc kinh chú, chỉ lặng lẽ thắp hương… để rồi sau đó một giờ, trong lúc băng qua đường, nó bị xe hàng cán chết…
Từ ngày đó, tôi bỏ công việc,từ chối gặp gỡ bạn bè, đồng đạo, tự nhốt mình trong nhà, rút vào trong vỏ ốc của sự cô đơn vằn vặt…
Cô Hai Xa Cảng đã về từ lâu, mặt trời cũng đã mất hẳn cuối chân trời phía Tây, chỉ còn lại một quầng sáng đỏ hắt lên bầu trời ảm đạm. Tôi khẽ đung đưa chiếc võng, không khí mát dịu nhưng lòng tôi vẫn cảm thấy nặng nề u uất. Tiếng cô Hai Xa Cảng vẫn còn văng vẳng trong đầu:
- Cậu Hai nghĩ lại đi. Người ta đang cần cậu giúp đỡ, cậu lại nỡ khoanh tay làm ngơ sao? Cứu một người bằng xây bảy cảnh chùa, huống chi bây giờ cậu cứu cả nhà người ta, cả người sống và người chết!
Cô Hai đâu có hiểu tâm trạng của tôi lúc này. Cứu làm gì khi vận mệnh của mình còn không biết sẽ ra sao. Tôi đâu phải là Phật thì làm gì có thể hoá độ mọi người chứ! Ngay đến em tôi, tôi còn không cứu được nữa là…
- Cậu Hai suy nghĩ lai nghe! Nếu cậu đồng ý, tôi thuê xe rước cậu về Mộc Hoá liền. – Câu nói vẫn còn dư âm, nhưng tôi chỉ thở dài và chìm vào trong giấc ngủ nặng nề…
xXx
… Tôi đang đi trên một con đường bờ mấp mô, nhỏ hẹp. Trước mặt tôi là một cánh đồng trải dài. Lúa đã gặt sạch chỉ còn trơ gốc rạ vàng úa, cằn cỗi. Xa xa, thấp thoáng rặng dừa nước. Chắc là phía ấy có nhánh sông hay rạch gì đó. Không gian ảm đạm như buổi chiều tà tắt nắng sớm, dường như có một chút khói sương đang giăng giăng mờ ảo. Tôi
đứng lại ngơ ngác nhìn quanh...Bóng một người con gái thấp thoáng trên con đường bờ phía trước. Tôi rảo bước đi theo, còn kịp nhận ra chiếc áo bà ba bông tím hoa cà phất phơ trong màn sương khói. Tôi cất tiếng gọi, nhưng tiếng của tôi tan vào trong hư vô. Dường như cô gái cảm nhận tiếng kêu của tôi, cô đi chậm như nấn ná. Đến những lối rẽ, cô dừng lại hẳn như chờ đợi. Khi tôi tới gần, cô lại rảo bước đi nhanh. Tôi không nhớ là mình đã theo cô gái được bao lâu, chỉ biết là đi mãi... Đến một hàng tre rậm rạp, cạnh đó là một ngôi mộ đất có trồng cây chuối sứ, cô gái đột ngột quay mặt lại nhìn tôi. Đến lúc này tôi mới nhìn rõ gương mặt của cô.
Phải nói rằng cô rất đẹp, một cái đẹp mặn mà chân chất của cô gái vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Nước da ngăm đen, chân mày thanh tú, đặc biệt là đôi mắt, nó cứ đen láy mở to và đượm buồn. Từ khoé mắt của cô, những giọt lệ cứ trào ra và lăn dài trên gò má ... Tôi chưa kịp hỏi han gì thì cô bỗng mờ dần, mờ dần rồi tan biến trong màn khói sương hư ảo...
xXx
... Tiếng còi xe làm tôi giật mình mở mắt, xung quanh tối đen, trong nhà đã lên đèn tự lúc nào. Tôi đưa tay nhìn đồng hồ- đã hơn chín giờ tối. Tôi đã ngủ quên gần bốn tiếng đồng hồ, như vậy những hình ảnh ban nãy chỉ là một giấc mơ. Tôi lại thở dài, cuộc đời này cũng đang là một giấc mơ không hơn không kém, thoáng nhớ đến hai câu trong bài sám hồng trần:
"Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng
Mơ màng trong một giấc nồng mà thôi"
Quơ tay xua đám muỗi háu ăn, tôi ngồi dậy lững thững đi vào nhà. Má tôi đã dọn cơm sẵn cho tôi tự lúc nào. Mâm cơm nguội ngắt. 

Ba tuần sau tôi về công ty tiếp tục làm việc. Ở nhà mãi cũng chẳng làm gì. Suốt ngày ra vào an ủi nói chuyện cho nội và má tôi đỡ buồn. Đến giờ thì tụng kinh trì chú cho thằng em. Từ hôm nó mất đến nay, tôi không còn luyện phù nữa mà chuyển sang tụng kinh Di Đà và trì Vãng sanh thần chú. Tôi biết nó chết dữ như vậy khó mà siêu thăng Tịnh độ, nhưng chắc chắn nó sẽ được về cảnh giới Trung thiên để tu tiếp, chờ cơ hội trở lại nhân gian để hoàn tất đoạn nhân duyên cuối cùng của nó. Thỉnh thoảng tôi có thấy và trò chuyện với em tôi, tuy chỉ một hai câu thì nó biến nhưng tôi có thể đoán được phần nào.Những điều này, tôi không bao giờ dám kể cho gia đình nghe vì sợ nhắc đến chuyện buồn đã qua.
Thấy nội và má tôi bình thường trở lại, tôi mới dám nhận tour mới. Chuyến hành trình này xuôi theo quốc lộ dọc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long theo yêu cầu của khách. Trước ngày khởi hành, Giám đốc gọi tôi lên văn phòng nói nhỏ:
- Em cố gắng săn sóc tốt mấy vị này nhé. “Cớm” không đấy!
Như sợ tôi chưa hiểu, Giám đốc giải thích thêm:
- Đây là đoàn cán bộ văn hoá của Trung ương đi thực tế tự do. Họ không muốn đón tiếp rườm rà nên xin kinh phí rồi tự hợp đồng với công ty mình hướng dẫn. Họ muốn có một người rành về miền Tây đưa đi…
- Trong công ty mình thiếu gì người am hiểu Nam Bộ…
- Ấy, rành thì có rành. Nhưng nghe nói đi với cán bộ Trung ương ai nấy đều rét. Tụi nó sợ ăn nói có gì thất thố… làm ảnh hưởng đến uy tín công ty.
Tôi cười buồn:
- Trung ương hay địa phương gì cũng là người cả thôi, làm gì phải cuống lên thế chứ.
- Anh biết rồi, nhưng đâu phải đứa nào cũng như em… Thôi anh cẩn thận dặn dò em trước, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ nghe.
Hôm sau đoàn chúng tôi lên đường. Chuyến đi khởi hành ngày mồng Một, đúng ba tháng sau khi thằng em tôi mất.
Đến Long An, sau khi làm việc với Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh xong, lẽ ra đoàn đi thẳng đến khu Di tích Óc Eo như kế hoạch định sãn. Nhưng, anh trưởng đoàn chợt nhớ ra có người bạn thân đang làm cán bộ chủ chốt ở Huyện uỷ Mộc Hoá, đã lâu rồi hai người không có dịp gặp nhau. Thế là xe đổi hướng nhắm Mộc Hoá khởi hành…
Chuyện gặp gỡ hàn huyên của những người bạn thân xa cách lâu ngày thiết nghĩ chẳng cần phải kể vào đây. Sau phần xã giao, anhem đồng chí khoác tay nhau đến một quán lá bên bờ sông để làm tiệc tẩy trần, họp mặt. Rượu đế Gò Đen chính hiệu rót ra ly sủi tăm trong vắt, khăn lạnh đập nổ lốp bốp vui tai, không khí họp mặt có chút rượu bia bỗng tưng bừng rộn rã làm sao.
Dĩ nhiên là tôi cũng được dự phần. Nhưng lấy cớ bị bệnh đường ruột, không ăn uống được đồ sống nên tôi tìm cách xin kiếu sau khi hẹn khách gặp lại vào sáng hôm sau.
Thật ra, tôi không ăn được là một lí do. Sâu xa hơn, tôi không chịu được cái cảnh người ta đem cả thau cá lóc ra đập đầu từng con để nướng trui. Những con cá lóc đen trùi trũi, to bằng cườm tay người lớn, bị đập đầu bôm bốp bằng khúc gỗ to,thân cá giãy lên đành đạch rồi giần giật những cơn run rẩy cuối cùng trước khi bị người ta xiên ống tre vào bụng đem lên than đỏ. Hay đau đớn hơn là cái cảnh lũ cá kèo đang nhảy lung tung trong rỗ, bị người ta trút thẳng vào nồi nước đang sôi. Cả lũ quẫy tung thiếu điều bung cả nắp nồi, những cái chết thảm khốc phục vụ cho buổi tâm tình họp mặt của những người bạn cũ… Nhìn cảnh ấy, tôi chợt nhớ đến đoạn phim tài liệu về nạn diệt chủng chiếu cách đây vài năm. Người ta cũng giết nhau bằng cách đập đầu như thế. Lòng nhân cuả con người tan biến trong cái lý tưởng u mê mà họ đang thờ phụng !!!
Tôi vừa bước ra ngoài vừa cúi đầu trì niệm hồi hướng cho lũ cá đáng thương kia: “ Um, gavira gam svaha”. Cầu cho tụi bây dứt sạch sự đau đớn trong nghiệp thức, cầu cho bây dứt sạch nỗi oán hận dày vò để hoá kiếp làm người… tự nhiên tôi nhớ đến câu văn của nhà văn Nam Cao : “kiếp người như kiếp tao chẳng hạn…”
xXx
Tôi thả bộ dọc theo nhánh sông nhỏ. Vài chiếc ghe hàng còn neo trên bến chờ mối, nắng xiên quai buổi chiều phản chiếu trên dòng sông lấp loáng. Đến chợ Mộc Hoá, tôi ghé vô một quán càphê ven sông gọi ly chanh đá nhâm nhi. Cảm giác mát lạnh vừa ngọt vừa chua của ly nước cùng những cơn gió từ mặt sông thổi vào làm tôi sảng khoái hơn.
Đang ngồi ngó mông lung, chợt có tiếng gọi mừng rỡ vang lên:
- Cậu Hai! cậu Hai!
Nghe giọng quen thuộc, tôi quay người nhìn lại. Cô Hai Xa Cảng đang bước vô quán, nét mặt đầy vẻ mừng rỡ:
- Cậu Hai đi đâu vậy? sao cậu lại ở đây? Nhìn thấy cái lưng áo tui nghĩ ngay là cậu mà, cái dáng của cậu không lầm với ai được cả. Gặp cậu ở đây tui mừng quá xá. Thôi, vậy là ổn rồi…
Cô hai liến thoắng một tràng dài như đại liên bắn làm tôi nghe không kịp thở, cũng chẳng trả lời lại được tiếng nào. Bất giác tôi phì cười - nụ cười hiếm hoi từ khi thằng em tôi chết.
- Sao cậu cười vậy? – Cô Hai nhìn tôi ngơ ngác – Tui nói có gì hổng phải hả cậu?
- Không có, tại tôi thấy cô hỏi liên tục chẳng cho ai nói tiếng nào nên tôi cười vậy mà.
- Vậy hả, tui xin lỗi cậu nghe. Gặp cậu ở đây tôi mừng quá nên…
- Thôi, được rồi, cô ngồi xuống đi, bà con người ta nhìn kìa.
Cô Hai kéo ghế cái rột và ngồi xuống đối diện tôi, miệng cô vẫn còn cười toe toét lộ hàm răng trên sún hết mấy cái. Thấy cô tỏ vẻ vui mừng ra mặt, tôi cũng thấy xúc động.Nhìn cô, tôi nhớ lại cái ngày đầu quen biết với cô…

...Bà Chín Linh nhi là một đạo hữu mà tôi quen biết trong một lần đi núi Cấm. Lúc ấy, trong đoàn hành hương của bà có người bị chư vị tá điển mà không xuất được, cả đoàn cuống quít khấn vái tứ tung. Tình cờ lúc đó tôi cùng sư huynh Minh Tịnh đi ngang qua. Thấy cô gái bị vật vã không thôi, chịu không được tôi liền xin một chén nước làm phép giải điển, nửa chén tạt vào mặt và rưới lên đầu, nửa chén còn lại cho cô uống. Sau khi cô gái tỉnh hẳn, chúng tôi tiếp tục lên đường. Bà Chín chạy theo làm quen… vậy là tôi có thêm một đạo hữu mới.
Sở dĩ gọi là bà Chín Linh nhi vì chồng bà thứ Chín, gọi theo thứ của chồng. Phần của bà là thu thập các vong con nít về nhà lập trang thờ, hương khói mỗi ngày nghiêm túc. Mỗi khi có ai đó hiếm muộn đến nhờ vả cầu con,bà liền coi tướng trạng, hỏi tên tuổi,nghe mạch lý. Thấy được, bà liền đưa vào bàn thờ van vái Tử Tôn nương nương và xin quẻ âm dương. Được keo, bà đưa ngay ra phía sau nhà, nơi có gian thờ biệt lập để lựa con. Ở trong gian thờ, bà đóng thành kệ như bậc thang. Trên mỗi kệ bà để lủ khủ các con búp bê lớn nhỏ đủ kiểu đặt ở tư thế ngồi. Thân chủ có duyên với con búp bê nào, bà đưa con búp bê ấy đem về nhà để thờ, cho đến khi nào thân chủ có mang thì đem hoá nó đi.
Có một lần, bà Chín đi “thu gom” nhằm càn ranh con lộn thuộc loại oan gia trái chủ.Ngay tối hôm đó, gian thờ linh nhi của bà dậy rân trời tiếng trẻ con khóc thét, tiếng la hét, đùa giỡn, đập phá đồ đạc ầm ầm như một trận ác chiến. Cả nhà hoảng hồn mở đèn chạy vào xem thì mọi thứ vẫn nằm im lìm nguyên vẹn như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Sự việc ngày càng tệ hơn. Ở những đêm kế tiếp, phòng ngủ của từng người bị gõ cửa liên tục như sắp bị phá đến nơi, thức dậy mở cửa ra thì không có người nào. Ban đầu, lũ quỷ con chỉ phá lúc tắt đèn. Về sau, dù đèn mở sáng choang vẫn nghe mồn một tiếng la hét quậy phá của một bầy con nít.
Sự việc lên đến cao trào khi đứa con gái đầu của bà Chín đang ngủ, đến nửa đêm nghe nặng ngực khó thở, mở mắt ra nhìn thì thấy một đứa trẻ mình mẩy máu me không đang ngồi chễm chệ trên ngực. Cô hoảng hồn la hét kinh hoàng đến nỗi hàng xóm xung quanh mở đèn chạy sang cứu giúp…
Bà Chín đã làm hết cách nhưng vẫn không hiệu quả, nhiều huynh đệ khác nhảy vào cúng bái kết cục vẫn như cũ. Cuối cùng,bà chợt nhớ đến tôi…
Ngày đầu tiên tôi đến cúng, mọi thứ có vẻ êm đẹp. Nhưng chỉ yên ổn đúng một đêm, qua đêm sau mọi thứ vẫn đâu vào đấy, thậm chí đám tiểu quỉ quậy còn bạo hơn lúc trước. Tức mình, tôi sử dụng ấn Tam Sơn quyết của Tổ sư truyền kết hợp với bùa trị càn ranh con lộn để khắc chế. Kết quả cũng chẳng ăn thua. Tôi đành chạy về cầu cứu thầy tôi. Thầy tôi nói từ trước đến nay chưa gặp trường hợp này nên chưa nghĩ ra cách tốt nhất, thầy khuyên tôi chạy về chùa gặp sư công một chuyến.
Sau khi nghe tôi thưa chuyện, sư công tôi cười nói:
- Con nít nó biết cái gì mà mày dùng Tam Sơn quyết, chẳng khác nào đem súng ra doạ đứa trẻ lên ba. Còn bùa trị Càn ranh con sát, con lộn chỉ có tác dụng khi nó đang ám người mẹ. Hiện tại, nó đang là quỉ linh nhi ở ngoài pháp phù không phát huy hiệu lực đâu.
- Vậy làm sao bây giờ hả sư công?
- Bản chất của trẻ con là nghịch ngợm, hiền lành. Đứa nhỏ con ranh kia sở dĩ dữ tợn như thế là do oan nghiệp tiền khiên đời trước nên nó mới đeo theo mà báo ứng đến giờ. Đạo hữu của con không biết nguồn cội, không xét thiệt hơn đã vội thu thập nó về, thử hỏi làm sao nó không quậy phá cho được.
Nghe sư công nói, tôi toát mồ hôi lạnh.
- Sư công ơi, con biết rồi. Làm sao giải bây giờ hả ông? Con cái bà Chín bỏ nhà chạy hết trơn, còn bà lo đến tóc hai bên thái dương bạc trắng luôn.
- Cái gì cũng có phép hoá giải cả. Oan có đầu, nợ có chủ mà. Con bảo đạo hữu của con đến nhà thân chủ là mẹ cuả đứa con lộn ấy, thuyết phục thân chủ thỉnh các sư về lập đàn tràng siêu độ cho đứa bé.
- Vậy là xong hả ông?
- Đâu có dễ vậy. Nếu vong nào cũng siêu độ được thì cần gì có thầy pháp hả con. Đó chỉ là bước đầu giúp nó tan bớt oán khí đi. Vong nó dữ tợn, mạnh bạo là do oán khí chất chồng, giải oán khi đi tức nhiên sức mạnh của nó phải sút giảm.
- Vậy là lúc đó có thể ra tay trị nó được rồi phải không ông?
- Sao lúc nào con cũng nghĩ đến chuyện đánh và trừng trị không vậy? Hồi truyền cho con mấy chữ phù Ngũ Lôi, thầy bay nói công dụng của nó để làm gì?
- Dạ, để đánh tà…
- Không phải đánh tà mà là chữa tà, giải tà.
- Vậy có gì khác nhau đâu sư công?
- Hiểu đúng công năng để hiểu rõ tôn chỉ của người làm thầy. Mục đích dùng Ngũ lôi là để răn đe, rồi hoá độ chứ không phải để hành hạ, trừng trị… hiểu chưa?
- Dạ …
- Trong khi đánh tà, con phải khởi tâm từ bi mà biến thành phẫn nộ, có vậy mới đỡ gây oán nghiệp về sau.
- Dạ, sư công nói con hổng hiểu gì hết. Từ bi thì làm sau mà phẫn nộ được, cũng như nước đá làm sao mà đốt cháy thành lửa …
- Con chịu khó tụng kinh niệm Phật và trì Bát nhã thường xuyên đi, sau này con sẽ hiểu dần. Còn bây giờ con chưa thấu triệt được đâu.
- Sư công ơi, vậy còn vụ quỉ linh nhi giải quyết ra sao?
- À, con đem bánh kẹo, sữa bò, đồ chơi vào trong am cúng tụi nó. Sau khi gom lại đủ rồi thì dùng lịnh và chú của Quỷ Tử mẫu mà thu phục. Nếu được, con khuyên đạo hữu của con siêu độ đám tiểu linh nhi này đi. Làm công việc của bà ấy chẳng khác nào đang sử dụng con dao hai lưỡi, không biết lưỡi thứ hai cắt đứt tay mình lúc nào…
Tôi trở về am bà Chín và làm đúng theo những gì sư công hướng dẫn. Cũng may là mọi người đều nhất nhất nghe lời. Công việc tiến triển thuận lợi. Bà Chín qua chuyện này cũng không còn mặn mà việc thờ cúng linh nhi nữa, nên vừa nghe đề nghị của tôi, bà lập tức đồng ý.
Sau khi thu phục bọn trẻ, bà Chín và tôi lập đàn tràng đốt xe giấy thỉnh chư thần đến rước toàn bộ tiểu linh nhi về núi tu hành… Sau này, có hai đứa thành tài, cảm duyên của bà Chín nên quay trở lại tá điển vào xác bà chữa bệnh, coi bói …đó là chuyện sau này.

xXx

Tôi ghé nhà bà Chín Linh nhi lúc bà đang có khách. Đó là một người phụ nữ gầy ốm, vận bộ bà ba nâu, khuôn mặt bà ta dài ngoẳng thật phù hợp với cái dáng vẻ khẳng khiu như cây tre miễu của bà. Chỉ có đôi mắt lúc nào cũng nheo nheo và cái miệng như muốn cười là làm cho người ta cảm mến.
Bà Chín đứng dậy giới thiệu:
- Cậu Hai vào chơi. Giới thiệu với cậu, đây là cô Hai Xa Cảng, cũng người trong bổn đạo. Nhà cô ở ngay bến xe miền Tây nên huynh đệ gọi cổ là cô Hai Xa Cảng cho dễ nhớ.
Quay sang tôi, bà Chín nói tiếp:
- Còn đây là… - Thấy tôi nháy mắt, bà hiểu ý, lập tức đổi tông – đây là cậu Hai Dũng, làm nghề hướng dẫn du lịch. Cẩu đi tối ngày hà, hôm nay mới ghé chơi. Thôi, cậu Hai ngồi xuống uống nước
- Dạ…
Tôi nhấc nhẹ chiếc ghế về phía mình và ngồi xuống. Cô Hai quay sang ngắm nghía tôi một lúc lâu như xem tướng rồi quay sang bà Chín nói lởi xởi:
- Cô Chín à, tui thấy cậu này có căn lắm đó nghen. Cô cúng ra căn cho cẩu đi.
Suýt tí nữa tôi phì cười. Mấy vị linh căn này, hễ gặp ai biết đi chùa lễ bái hay tìm đến am miếu là y như rằng phán ngay cho họ hai chữ “ có căn”. Trên đời này, ai mà không có căn kia chứ. Không có “căn” làm sao có mình ở đây. Còn “có căn” theo kiểu mấy bà đồng đội khăn đỏ nhập xác về ợ ngáp quay cuồng theo tiếng chuông tiếng nhạc, tiếng hát tiếng hò thì… tôi xin bái.
Thấy tôi ngồi im có vẻ suy nghĩ, cô Hai phấn khởi coi tiếp:
- Tôi thấy cậu sáng lắm đó nghe. Tiền đồ thiệt là rộng mở… À, cậu cũng có người anh hay em gì đó đi theo độ cậu, nhớ cúng cho người ta. Còn nữa, tôi thấy có một ông gì… ông gì… lớn lắm – nói đến đây, cô Hai ngẩn người ra như mất hồn.
Thấy mặt cô Hai ngẩn ra, tôi cười thầm. Tôi luyện phù từ năm 15 tuổi, đến giờ đã hơn 10 năm, được cấp sắc ra sư rồi là sao cổ soi thấu được. Mấy vị án hết thiên linh làm cổ nói lạc quẻ hết trơn. Cô Hai hàm hồ nói tiếp:
- Số cậu không gần cha mẹ, sinh ra lớn lên như cây mọc trơ trọi giữa đồng, một mình chịu đựng sóng gió…
Nói đến đây tôi chịu hết nổi rồi. Tôi chưa bao giờ sống xa cha mẹ, dĩ nhiên là trừ những ngày tôi dẫn tour du lịch, anh em đang chung sống đông đầy với nhau. Còn sóng gió ư, có lẽ trong đám bạn bè tôi quen bíêt, kể cả trong huynh đệ học cùng thầy, tôi là thằng sướng nhất… Thấy cô Hai bắt đầu nói lung tung, tôi giả vờ chắp tay cung kính:
- Con cảm ơn cô Hai đã cho con biết thêm nhiều điều ..
- Không có gì đâu, có duyên dữ lắm mới gặp được tui nói cho vài lời đó.
Quay sang bà Chín nãy giờ chỉ ngồi trên võng tủm tỉm cười, cô Hai nói tiếp:
- Cậu này tương lai sáng lắm đó nghe.Cô Chín liệu mà lo cúng căn cho cậu ta đi.
Tính hiếu thắng của tuổi trẻ bốc lên. Tôi co tay bấm quyết triệu thần, thầm gọi chư vị : “… linh quang phổ chiếu…khí dụng thành huờn… án mộc linh thần chi nhĩ báo…”. Trong chốc lát, một số “tư liệu” về cô Hai đã có trong tay, tôi lễ phép xin cô Hai để cho tôi coi lại. Thấy cô tỏ vẻ ngạc nhiên, tôi nói luôn:
- Cô Hai gốc thuộc đạo Cao Đài Tây Ninh. Nhưng cô lớn lên không tu theo Cao đài mà lại theo Tịnh Độ. Mười năm nay cô bị căn hành lang thang đây đó, không làm ăn mua bán gì được cả.
- Trời ơi, sao cậu biết?
- Dạ, cô cũng theo thọ học đến ba bốn ông thầy, nhưng chẳng có thầy nào chịu cấp sắc cho cô cả, cho nên cô lại mang ý định muốn tìm một thầy khác để xin cái sắc chữa bệnh. Bây giờ thật ra cô cũng có thể cắt gió cạo lưng hoặc coi lặt vặt cho người khác chút đỉnh. Nhưng cô làm việc có cơn, lúc muốn coi thì không biết nói gì, lúc không muốn coi thì tự nhiên cứ buột mồm nói ào ào không kiềm chế được…
Cô Hai há hốc mồm nhìn tôi, bà Chín ngồi trên võng cười ngất:
- Đúng hôn vậy cô Hai?
Cô Hai Xa Cảng không trả lời mà quay sang tôi chờ nghe tiếp. Tôi thấy hình như cô đang thu người lại.
- Bây giờ cô vẫn cứ lang thang, gia đình con cái coi thường cô, không ai chịu nghe cô dù chỉ một lời, không ai chịu hiểu cho cô cả…
Cô Hai bật khóc ngon lành, khóc tức tưởi. Nước mắt cô tuôn tràn khiến tôi có cảm giác như cô đã chuẩn bị khóc từ lâu lắm rồi. Vừa khóc cô vừa than thở chuyện nhà cửa, chuyện chồng con, chuyện lang thang của cô. Tôi đột nhiên trở thành người nghe bất đắc dĩ, bấc giác tôi hối hận về việc làm của mình…
- Cậu Hai ơi, cậu có cách nào giúp giùm tôi không vậy cậu? – Cô Hai chợt đổi giọng một cách đáng thương.
Bà Chín lúc này mới góp lời:
- Tôi nhắn cậu ghé qua đây cũng là vì chuyện này đó.Thấy cổ bỏ nhà bỏ cửa đi hoài mà thương, có khi không ăn không uống gì cả. Thấy đám cúng bà cúng miểu, cúng đình là cổ sà vô bái lạy nấn ná đến chừng tan hàng mới thôi. Nay biết cậu rồi, nhờ cậu giúp giùm.
Tôi thở dài, giá mà lúc nãy mình đừng có thử nghề với cổ, giá mà trước đây mình đừng có vướng vô mấy vị linh căn này thì bây giờ đỡ khổ biết bao. Nhưng thôi, mọi thứ đều có duyên nợ cả, mình làm mình chịu chứ trách ai bây giờ. Vả lại, nếu giúp cho cổ ổn định lại, cổ sau này làm thầy giúp được cho bá tánh thì mình cũng có chút âm công để dành. Nghĩ vậy, tôi liền quyết định chỉ cho cô Hai Xa Cảng bài Cửu Thiên Huyền nữ Tổng chú và Cửu Thiên huyền nữ lệnh phù. Sau đó, tôi vẽ cho cô chín chữ Định tâm phù uống trong chín ngày cúng đức Cửu Thiên huyền nữ…
Từ đó, cũng như bà Chín, cô Hai trở thành đạo hữu của tôi. Hễ có chuyện gì khó khăn nan giải, cô liền chạy đến nhờ tôi hỗ trợ một tay… 

xXx
Tiếng cô Hai kéo tôi trở về với thực tại:
- Cậu Hai nghĩ gì mà thần người ra vậy?
- À, không,tôi chỉ nhớ lại chuyện cũ thôi mà!
- Cậu Hai à, từ sau chuyện xảy ra ở nhà cậu, tui thấy cậu hay mơ màng lắm nghe…
Tôi đánh trống lảng:
- Sao cô lại có mặt ở đây vậy?
- Ủa, cậu quên tui quê ở đây sao?
- Ờ há, tôi không để ý …
- Còn cậu, sao cậu lại ở đây?
- Tôi đưa khách đi miền Tây, ghé Uỷ Ban nghỉ một đêm, mai đi tiếp.
- Vậy là tốt quá rồi. Cậu ghé đây rõ ràng là do ơn trên xoay chuyển. Tui không còn lo nữa.
- Nhưng mà cô lo chuyện gì?
- Cậu hổng nhớ tháng trước tui ghé nhà cậu nhờ cậu về Mộc Hoá một chuyến giúp gia đình tui à?
- Lúc đó rối bời, tôi đâu có để ý kỹ. Thôi, cô kể lại chi tiết giùm tôi đi.
- Chuyện là vầy…
…Châu là con gái bác Tư Xê, gọi cô Hai Xa Cảng là cô họ. Năm nay Châu vừa tròn 19 tuổi, cái tuổi xuân thì vừa đủ độ chín mùi để làm gục ngã bao chàng trai trong vùng. Chẳng những thế, Châu còn hát hay, cấy giỏi. Mỗi khi bà con cấy vần công, ai nấy bị Châu bỏ xa. Có khi cô còn cấy bao nhốt mấy chàng vào trong đám mạ phải la oai oái. Nhiều nhà có con trai mới lớn đều ngắm nghía và tính chuyện làm sui với bác Tư. Bác Tư lấy chuyện này làm điều thích thú. Mỗi khi đi đám tiệc ở đâu, nhắc đến Châu là y như rằng bác khoe hết lời khiến nhiều người cứ tấm tắc hít hà…Thật ra , bác cũng đang âm thầm kiếm một chàng rễ vừa ý.
Vậy mà, đùng một cái cô Châu có bầu. Lúc đầu thấy cô nôn oẹ, biếng ăn, ở nhà cứ tưởng cô làm nhiều sinh bệnh. Nhưng rồi những triệu chứng của một người ở cử càng lúc càng lộ rõ, nhất là cái eo vốn thon thả của cố cứ tròn dần ra một cách công khai khiến mọi người tá hoả. Bà con lối xóm xì xầm bàn tán, rủ nhau đoán già đoán non về tác giả cái bào thai kia. Trước đây, mọi người ca ngợi Châu bao nhiêu thì bây giờ cái tiếng thị phi cũng tương xứng bấy nhiêu. Vợ chồng bác Tư thì khỏi nói. Bác gái lúc nào cũng rền rĩ than trời trách đất, rồi trách bản thân vô phước có một đứa con gái hư thân mất nết như Châu. Bác Tư Xê thì ngày nào cũng tra hỏi cật vấn rồi mắng chửi đánh đập. Có hôm ra đồng, mặt mày Châu sưng tím, tay chân lằn ngang lằn dọc vì trận đòn dữ tợn của bác Tư. Mọi người càng dè bĩu, bác Tư càng đánh chửi thì Châu càng im lặng. Cái im lặng thật đáng sợ ẩn chứa một sự phản kháng ngầm…
Bất ngờ lúc giữa trưa, làng xóm nghe tiếng gào khóc của bác Tư gái. Mọi người ùa sang thì thấy cô Châu cả người tím tái, mắt trợn dọc, bọt mép sùi ra hai bên ướt cả chiếc áo bà ba màu tím hoa cà, ướt cả chiếc chiếu cô nằm. Người cô nẩy lên từng cơn như bị kinh phong. Bà con xúm nhau lại cạo gió, cắt lưng, giật tóc mai nhưng cô chỉ còn nảy người lên vài cái rồi rủ xuống tắt thở. Cô chết nhưng đôi mắt vẫn mở to, nhìn vào hư không như oán trách điều gì. Dưới chân giường vẫn còn chai thuốc xịt rầy đã vơi hơn phân nửa.
Vậy là mọi người lại bắt tay vào lo hậu sự cho cô Châu. Đôi mắt cô vẫn mở to không nhắm, người nhà làm đủ cách nhưng đôi mắt vẫn cứ mở trừng trừng khiến ai nấy rởn óc không dám nhìn lâu. Cuối cùng, mấy vị chức sắc trong Cao Đài quyết định lấy chiếc khăn đỏ phủ lên đôi mắt cô rồi làm nghi thức an táng. Vì cô Châu chết lúc đang có mang nên bên mộ của cô Châu, người ta trồng một cây chuối sứ, chừng nào chuối trổ buồng thì đứa nhỏ ma cũng được chào đời.
Ba ngày sau, chuyện lạ bắt đầu xảy ra…
Ông Tám thợ rèn đi ăn đám giỗ bên kia sông nên về muộn hơn thường ngày. Trời chạng vạng ông mới khật khà khật khưỡng qua đến đám ruộng của bác Tư Xê. Một cơn gió lạnh thổi qua làm ông rùng mình. Cái “bầu tâm sự” của ông cần có chỗ để trút. Ngó quanh quất không thấy ai, ông vén quần tè luôn trên bờ ruộng. Chợt ông nghe tiếng nói văng vẳng :
- Ông Tám đi đâu về tối quá vậy…?
Tưởng gặp người quen, ông Tám lập tức ngưng ngay công việc “tưới ruộng”. Vừa xả ống quần xuống ông vừa vội trả lời:
- Ừ, tao đi đám giỗ về …mà đứa nào hỏi đó bây?
Nhưng, khi quay người lại, ông chẳng thấy bóng dáng người nào. Tưởng uống rượu nhiều quá nên mơ hồ, ông Tám lắc lắc cái đầu như xua tan cơn say, tiếp tục giải quyết chuyện của mình. Vừa mới kéo ống quần lên, ông nghe tiếng kêu thật lớn:
- Ông Tám…
Lần này không thể lầm lẫn được, ông Tám quay phắt lại nhìn. Trong không gian nhá nhem tối, ông chợt phát hiện mình đang đứng gần nấm mộ của cô Châu. Mồ hôi lạnh toát ra ướt áo, ông Tám tỉnh hẳn rượu vội co giò chạy một mạch về nhà, mặt mày tái mét, nói chẳng ra lời. Hôm sau ông ngã bệnh...
Trường hợp ông Tám không phải là duy nhất. Thím Năm Hoài, rồi cô Hai Lành, thằng Rạch con ông Ba Thớm đầu xóm cũng thấy cô Châu hiển linh. Thằng Rạch kể, chiều hôm đó nó lùa trâu về nhà, lúc ấy trời chưa tối hẳn, đi ngang mộ của Châu, nó thấy cô đứng sẵn tự lúc nào. Lúc đầu nó còn tưởng cô nào ở trong vùng đang hẹn hò với bồ, không dè đến gần nó thấy cô Châu đang cười nhìn nó. Vẫn là chiếc áo bà ba bông tím hoa cà mà ở nhà mặc lúc liệm xác cô, vẫn nụ cười duyên quen thuộc với bà con lối xóm. Cô lấy tay ngoắc. Hồn vía lên mây, thằng Rạch cắm đầu chạy, vừa chạy nó vừa la bài hãi: “ Trời ơi!...Ma…ma…a…”Về đến nhà nó ngã vật ra sùi bọt mép, lên cơn co giật. Báo hại cả xóm gần cả đêm không ngủ với nó. Người lớn vừa kiếm thầy cắt lễ cho thằng Rạch vừa cử mấy tay thanh niên chạy ra ruộng tìm trâu.
Trong khi cả xóm còn đang kinh hoàng thì sau lễ cúng cửu đầu tiên (đạo Cao đài lấy chín ngày để cúng vong nên gọi là cửu, khác với đạo Phật cúng thất sau khi người chết được bảy ngày ) nhà cô Châu bắt đầu có chuyện. Buổi tối, cả nhà nghe tiếng lục đục trong buồng ngủ của cô. Tưởng là chuột nên bác Tư chỉ vỗ vỗ vào vách mấy cái rồi ngủ tiếp. Đến tối hôm sau thì tiếng động càng lớn hơn như ai đó đang lục lọi đồ đạc trong buồng. Cất tiếng hỏi không nghe ai trả lời, bác Tư bưng đèn vào trong xem thử. Tất cả bình thường, không có vẻ gì là xáo trộn. Đêm tiếp theo nữa, cả nhà không ai ngủ được vì tiếng khóc rấm rức từ trong buồng văng vẳng vang ra. Nghe kỹ thì đó là tiếng khóc quen thuộc của cô Châu mỗi khi bị bác Tư đánh mắng. Ở nhà rởn da gà không ai dám ho he. Riêng bác Tư trai vốn có vai vế trong đạo nên còn bình tĩnh, bác hét lớn át cả tiếng khóc:
- Bây sống làm nhục nhã cha mẹ, giờ chết rồi tính làm ma để báo hại gia đình hải không?
Tiếng khóc chấm dứt. Cả nhà yên giấc đến sáng.
Nhưng rồi những đêm sau mọi thứ vẫn tiếp diễn như cũ. Lần này càng lộng hơn, người nhà thấy cô Châu hiện hồn rành rành. Từ trong buồng, cô bước ra quanh quẩn gần tủ thờ rồi khóc lóc. Có khi đang ngủ, vợ chồng bác Tư giật mình thức giấc nghe tiếng của Châu kêu gọi thảm thương:
- Má …ơi! … Tía … ơi…ơi…!
Mở mắt ra nhìn, hai ông bà thấy cô xoã tóc đứng ngay cạnh giường ngủ của mình. Ở dưới quê lúc bấy giờ chưa có đèn điện, nhà nào sang lắm mới xài điện bình. Bình gần cạn phải đi ghe ra ngoài chợ để sạc lại. Nhà bác Tư cũng chỉ xài đèn dầu, trong ánh đèn dầu tù mù leo lét, bóng cô Châu lúc ẩn lúc hiện với mái tóc xoã dài với tiếng khóc nức nở làm mọi người sợ đến mất vía.
Ban đầu là bác gái bỏ buồng trong chạy ra bộ ván ngủ với bác trai, rồi sau đó cả nhà dọn giường qua gian bếp ngủ chung với nhau. Cuối cùng cả nhà bỏ sang nhà bác Ba Xàng ngủ nhờ. Thế là căn nhà của bác Tư … ban ngày dành cho người, còn ban đêm … để lại cho cô Châu về ở.
xXx
… Dường như kể nhiều hơi mệt, cô Hai Xa Cảng dừng lại hớp một ngụm cà phê đá.
- Cô Hai à, tính đến bữa nay thì cô Châu chết được mấy ngày rồi cô?
- Đến ngày mai là vô cửu thứ bảy rồi đó cậu. Nói thiệt với cậu, từ hôm cậu từ chối không nhận, ở nhà đã làm hết cách rồi. Mời bổn đạo đến hộ niệm, mời thầy đến cúng giải vong, mời đồng bóng về cúng bà… hễ ai bày gì là anh chị Tư tui làm nấy nhưng coi bộ hổng ai làm được gì cả cậu Hai à. Cực chẳng đã anh chị Tư tui nói quá nên tui mới về cúng thử xem sao. Biết đâu nó thương tui thiệt lòng cầu nguyện cho nó mà chịu đi đầu thai thì phước ba đời luôn đó cậu.
- Cô về được mấy hôm rồi.
- Mấy đâu mà mấy. Tui đi chuyến xe đầu hôm nay, về đến đây mới có 10 giờ hà. Vậy mà có chút thời gian rảnh đã nghe không biết bao nhiêu chuyện về con Châu nữa.
- Còn thêm chuyện gì nữa?
- Đó, mới hôm qua thôi. Buổi chiều, anh Bảy Niễng chạy hào hễn từ ngoài ruộng về. Vô tới nhà ổng la um lên : “Con Châu nó rượt tui, con Châu nó rượt tui”. Gặp chị Bảy nghễng ngãng còn hỏi lại: “ Trâu làm gì mà rượt ông chứ?” thiệt là cười ra nước mắt luôn. Đến khuya hôm nay, bạn hàng của chị Tư đi ghe qua trước nhà, tính ghé lên lấy đồ. Dè đâu vừa ghé vô thấy nó đứng ngời ngời ngay bến, ai nấy bò càng luôn vậy đó.
Tôi cắt ngang câu chuyện:
- Bây giờ cô định làm sao?
- Thì làm sao nữa, tui định tối nay tụng kinh cầu siêu cho nó. Thấy còn thiếu vài món nên vội chạy ra chợ mua thêm cho đủ.
Cô Hai đổi giọng:
- Cậu Hai ơi, gặp cậu ở đây rồi, thôi cậu giúp tui chuyến này đi nghe cậu.
Tôi không trả lời, quay ra ngó mông lung ngoài sông lớn. Phải chăng tôi gặp cô Hai ở đây là một sự tình cờ? Còn giấc mộng cách đây gần tháng, phải chăng cũng là trùng hợp? Câu chuyện kể của cô Hai làm tôi xúc động. Tự nhiên tôi thấy thương cảm cho số phận của một con người, sống bị người ta chê cười, chết lại bị người ta sợ hãi. Họ sợ hãi điều gì kia chứ? Sợ ma ư? Ai chết rồi mà chẳng thành ma? Ma là người đã chết, người là ma lúc còn sống, có gì khác nhau đâu. Cái kiếp sinh tử luân hồi, ai mà chẳng có một lần phải trải qua. Có điều, người thì ra đi nhẹ nhàng, kẻ thì quyến luyến nấn ná. Chẳng qua là vì họ chẳng cam lòng đó thôi, hoặc giả họ còn điều tâm nguyện nào đó chưa giải quyết nên không chịu nhắm mắt đi xuôi. Cái tâm tham lam, sân hận, si mê theo họ vào cả trong cõi u minh… Biết bao giờ mới giải thoát đây.
- Cậu Hai ơi, cậu giúp giùm tui đi cậu!
Tôi sực tỉnh, quay sang nói với cô Hai:
- Được rồi, cô ghé tiệm thuốc Bắc mua giùm tôi một số vị thuốc sau: Châu sa – 5 chỉ, Thần Sa – 5 chỉ, Son Tàu – 5 chỉ, A Nguỳ - 1 lượng…
Rồi cô ghé vô chợ mua luôn nhang đèn, giấy áo, nãi chuối sứ…ít giấy vàng…
Cô Hai mừng quýnh:
- Giấy vàng và nhang đèn tui mua rồi nè, còn mấy cái kia có ngay thôi. Cậu chờ tui chút nghe.
Nói xong, cô Hai đi nhanh ra khỏi quán. Cái dáng cao gầy của cô tất tả giữa dòng người đang từ dưới bến đi lên. 

xXx
Nhà bác Tư cách chợ Mộc Hoá khoảng 9 cây số đường sông. Chúng tôi đi ghe máy về tới nhà thì đồng hồ đã chỉ 5 giờ chiều. Thấy cô Hai từ dưới bến đi lên, một người phụ nữ trạc sáu mươi tuổi chạy ra đón lấy giỏ đồ trên tay cô Hai vừa nói:
- Trời chiều rồi mà cô chưa về làm tui lo quá. Sao mà lâu quá vậy?
- Gặp được quới nhơn nên về muộn đó mà – quay sang chỉ tôi, cô Hai giới thiệu - Cậu Hai Dũng, người mà tui kể với chị hồi tháng rồi đó. Hôm nay ra chợ mua đồ, may sao gặp cậu ấy đang ghé huyện làm công chuyện. Vậy là tui đưa cẩu về đây luôn. Còn đây là chị Tư của tui đó cậu.
Bác Tư gái có vẻ mừng rỡ:
- Mời cậu vô nhà, hôm nay mùng Một ở nhà có mấy mẹ con tui. Ổng mắc việc ngoài Thánh thất chắc không về được.
Bữa cơm chiều được dọn ra đạm bạc. Tàu hủ chiên vàng, dĩa rau mốp làm chua chấm chao và tô canh canh rau dền con ăn với cơm gạo mới. Tôi làm luôn ba chén đầy mà vẫn còn muốn ăn thêm, trong đầu chợt liên tưởng đến bữa tiệc ban trưa - nặng nề và tanh tưởi…
Ăn xong, trời cũng bắt đầu chạng vạng. Thoắt cái cả nhà bác Tư biến đi đâu mất, chỉ còn tôi và cô Hai loay hoay chuẩn bị thời kinh.
Khi theo chân cô Hai đi lên gian nhà trên, nơi đó thờ Thiên nhãn, Cửu huyền, bàn thờ của cô Châu cũng đặt ở đấy.
Vừa bước vào gian trên, tôi nhận ra ngay một cảm giác rất lạ. Gian thờ đóng kín cửa lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy gió ở đâu quyện nhè nhẹ vào cổ chân, sương sống tôi có một luồng khí lạnh chạy lên chạy xuống. Tưởng linh phù chữ Phật an ở đảnh và tâm ngực xong, tôi tiếp tục bước vào trong. Đến trước bàn thờ cô Châu, tôi bàng hoàng giật mình đánh thót một cái… chắc mọi người đã đoán ra điều gì rồi. Bức di ảnh của cô Châu trên bàn thờ giống với cô gái trong giấc mộng tháng rồi của tôi như đúc. Nói cách khác, cô gái mà tôi thấy trong lúc mơ màng chính là cô Châu, nhân vật trong tấm ảnh thờ đang đưa mắt nhìn tôi với nụ cười buồn bã…
Thoáng chút bàng hoàng tôi vội trấn tĩnh và bắt đầu thời kinh tụng. Tiếng chuông mõ hoà vào trong ánh sáng lung linh của hai ngọn đèn cầy, trong mùi nhang trầm phảng phất tạo nên bầu không khí liêu trai huyền ảo nhưng ấm cúng. Tôi và cô Hai hoà niệm bài chú Đại Bi:
“ … Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, nam mô a rị da bà lô yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da…”
Tiếng chuông điểm vào cảnh tỉnh, tiếng mõ đều đặn dằn tâm, tôi để lòng mình duyên theo bài chú, tâm thức như thấy hình tướng đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm đang ngự giữa hư không, ánh hào quang phóng ra tiếp dẫn vong hồn… từng luồng điện chạy dọc theo sống lưng , chạy ra hai tay từng đợt từng đợt làm tôi gai cả người. Tôi có cảm giác như vong hồn cô Châu đang hiện về trong tiếng chú.
“ Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ tát… Phật thuyết A Di Đà kinh. Như thị ngã văn…”
Bổn kinh Di Đà hầu như tôi thuộc nằm lòng. Từng lời từng lời trong kinh như mở ra cả một thế giới hư không với cõi Tây phương trang nghiêm Tịnh độ. Bốn mươi tám lời thệ nguyện của đức Phật Di Đà dẫn dắt chúng sanh về Phật quốc, cầu cho vong hồn của cô Châu thức tỉnh bến mê mà quay về bờ giác. Về đi thôi, về đi cô Châu ơi, luyến tiếc làm chi một chút hồng trần, hãy duyên theo lời hộ niệm mà thức tỉnh, hãy nương theo ánh hào quang của chư Phật ba đời mà thoát khỏi biển khổ này. Tôi tụng cho cô cũng như tụng cho thằng em đã mất của tôi. Nó và cô đã lìa bỏ cuộc đời, vậy đừng nên quyến luyến làm gì thêm khổ não.
… Xong thời kinh Phật, tôi nhờ cô Hai đem sẵn châu sa thần sa hoà trộn với son tàu thành một thứ mực đỏ sẫm. Chắp tay kết ấn trì tụng Quang Minh cam lộ chơn ngôn 21 biến, tôi dùng son tàu vẽ thành bảng phù ấn Tỳ lô hoa tạng. Sau đó tiếp tục vẽ thêm các linh phù bổn môn…
Đợi đến 11 giờ đêm, tôi bắt đầu khai đàn tác pháp. Cô Hai đứng ngoài hộ đàn. Không khí lúc này yên tĩnh lạ thường, không một tiếng động, dù là tiếng gió. Tôi có cảm giác không gian như đặc quánh lại, tay chân bỗng trở nên nặng nề. Tôi đốt phù và đọc chú gọi hồn. Trong cái yên lặng khác thường của gian phòng tranh tối tranh sáng, tôi nghe tiếng đọc của mình lanh lảnh: “…ơi…ơi… ma chi la …a…ma chi li… pon on ti pê sa…a… sắc sa quắt…ơi.. ơi…i…”Ngọn đèn cầy bên phải bàn thờ bỗng chao đảo liên hồi như có gió thổi, không khí bổng dưng lạnh một cách kỳ lạ. Hai lỗ tai tôi lùng bùng vang lên những tiếng vo vo như có hàng vạn con ve đang cất tiếng kêu. Biết là hồn cô Châu đang hiện về, theo thói quen tôi kết thủ ấn làm thành bị giáp kim cương hộ thân. Và rồi… trong khoảng tranh tối tranh sáng giữa cửa buồng của cô Châu với bàn thờ vong, tôi thấy một bóng người mờ mờ ảo ảo. Thoáng nghe tiếng cô Hai Xa Cảng “ư” lên một rồi tắt lịm, dường như cô đang lấy tay bịt miệng mình lại. Bóng hình rõ dần, rõ dần… đúng là hình ảnh tôi từng thấy trong mơ, cũng chiếc áo bà ba bông màu tím hoa cà trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn cầy, đã trở màu đen sẫm. Cũng dáng vẻ thanh nhã với cái bụng to hơn bình thường một chút, cũng khuôn mặt khả ái và những giọt nước mắt lăn dài trên má. Sau một thoáng xúc động, tôi vừa giữ ấn vừa hỏi:
- Cô có phải là cô Châu không?
Thoáng thấy chiếc bóng gật đầu. Tôi lại hỏi tiếp:
- Cô có biết tự vẫn huỷ hoại mình và thai nhi là mang tội với đất trời hay không ?
Vẫn là một cái gật đầu, nước mắt tiếp tục lăn dài trên gương mặt cô.
Cố nén tiếng thở dài, tôi nói:
- Cô biết mang tội mà vẫn làm chắc chắn là có nỗi khổ tâm. Nhưng cô có biết rằng ở lại thế gian phá quấy mọi người là chuốc thêm tội hay không? Người sống có con đường của người sống, kẻ chết có nẻo riêng của kẻ chết. Cô lẫn lộn âm dương, không lo an phận chờ ngày đứa trẻ ra đời thì chắc chắn sớm muộn gì mộ của cô cũng bị lôi đả cho mà xem…
Vẫn là tiếng nức nở. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao cô Châu không thể nói với tôi một lời nào. Tôi lại cất lời khuyên nhủ:
- Cô Châu à, tôi và cô gặp nhau là do duyên. Tôi chỉ mong giải toả uất ức trong lòng cô để cô yên lòng ra đi. Tôi không đủ sức siêu độ cho cô nhưng tôi sẽ nhờ hạnh nguyện ba đời chư Phật và oai linh Thầy Tổ để đưa mẹ con cô về núi tu hành.
Cô Châu khẽ cúi đầu như ngẫm nghĩ. Thật lòng lúc bấy giờ nếu cô Châu từ chối tôi cũng không biết phải xử trí cô ra sao nữa…May cho tôi, cô Châu ngẩng lên nhìn tôi như tỏ vẻ ưng thuận. Rồi cô đưa tay chỉ về phía bàn thờ Thiên nhãn và Cửu huyền như muốn nói gì đó. Tôi biết cô không dám đến gần bàn thờ Thiên nhãn.
- Cô muốn tôi làm gì ở đó?
Vong linh của cô Châu vẫn chỉ về phía bàn thờ. Nhìn theo tay chỉ của cô, hình như là trong tủ thờ có cái gì đó. Quay sang cô Hai Xa cảng định nhờ cô giúp thì thấy cô chắp tay che kín mặt, miệng lầm thầm niệm liên tục không dám mở mắt. Tôi đành đứng dậy đi về phía tủ thờ. Bây giờ nghĩ lại không hiểu tại sao mình làm được chuyện đó. Vì muốn đến tủ thờ phải đi ngang qua chỗ hồn ma cô Châu đang đứng, chỉ nghĩ đến thôi đã ớn lạnh rồi. Vậy mà lúc ấy tôi bước thản nhiên, lòng không có chút gì lo sợ. Vẫn nắm thủ ấn trong tay áo, tôi tiến đến tủ thờ. Bàn thờ gia tiên được làm bằng gỗ cẩm lai cẩn xà cừ. Hai bên hông tủ là hai cánh cánh cửa nhỏ. Ở dưới quê thường cất chén bát, ly tách quý giá vào bên trong tủ,mỗi khi có đám tiệc mới lấy ra xài một lần.
Tôi bước đến mở tủ ra, bên trong tối om. Với tay lấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ Cửu huyền xuống rọi vào, một mùi ẩm mốc xộc ra khiến tôi muốn nhảy mũi. Bên trong là từng chồng chén đĩa được gói lại cẩn thận bằng giấy báo, bụi bám đầy bên ngoài chứng tỏ lâu lắm không ai sử dụng. Không thấy gì, tôi lại quay ra nhìn hồn ma của cô Châu. Cô vẫn đứng xa xa chỉ về phía tủ thờ tôi đang mở, khuôn mặt mờ ảo của cô có vẻ khẩn thiết hơn. Tôi lại phải quay vào soi đèn tìm tiếp. Lần này, tôi đưa tay giở từng chồng chén đĩa lên để tìm. Bất chợt, tôi phát hiện một túi ni-lông được gói cẩn thận nhét ở dưới đống dĩa. Cầm túi
ni – lông ra, tôi xoay lại định hỏi cô Châu thì … cô biến mất tự lúc nào.
Quay trở lại đàn, tôi ngồi xếp bằng xuống và mở túi ni-lông ra. Cái túi được gói cẩn thận mấy lớp. Gỡ đến lớp trong cùng, một xấp thư và hai tấm ảnh rơi ra. Trong ảnh là cô Châu đang tươi cười bên cạnh một thanh niên khá đẹp trai. Cả hai đang đứng bên một hòn giả sơn khá lớn. Tôi chợt hiểu… Cô Châu ơi, chữ tình đối với cô lớn đến như vậy sao? Vì một người đàn ông mà cô nỡ bỏ cả mạng sống của mình, cũng vì những món vật còn để lại này mà cô không chịu ra đi… Thế gian trầm luân cũng bởi thế này … Thôi, tôi sẽ hoàn thành tâm nguyện cho cô, mong cô an lòng mà về núi…
Tôi bắt đầu tác pháp, kết thủ ấn định tâm nhập vào Tỳ Lô hoa tạng thế giới, tập trung trì niệm Quang Minh cam lộ chơn ngôn hồi hướng cho vong hồn mẹ con cô Châu được thoát khỏi ma chướng oán nghiệp, giải toả oan kết thế gian. Cuối cùng, tôi đốt linh phù bổn môn, nhờ oai linh thầy tổ đưa cô về núi. Những vật thực cúng dường, phù ấn, vàng bạc … và cả những bức thư, tấm ảnh của cô Châu đều được hoá cẩn thận. Thôi, sơn quy sơ, thổ quy thổ. Những gì của quá khứ xin trả về cho cát bụi, chết đi rồi có mang theo được gì đâu. Còn chút ân tình cũng nên trả lại thế gian, cầu chúc cô về núi tu hành tinh tấn…
Pháp sự hoàn mãn cũng là lúc chuông đồng hồ thong thả điểm ba tiếng. Cô Hai và tôi lặng lẽ thu dọn và ra bến chờ đứa cháu cô Hai lấy xuồng. Đến bây giờ bác Tư gái mới xuất hiện, tôi định nói với bác vài lời nhưng lại thôi. Nói gì bây giờ đây, dù gì đi chăng nữa, cô Châu cũng đã đi rồi, tâm nguyện của người chết và mong muốn của người sống đã được thoả mãn, có nói cũng vô ích mà thôi. Tôi lặng lẽ ra bến ngồi chờ, chiếc xuồng máy đuôi tôm đang tư từ trờ tới.
Chiếc xuồng nổ máy chạy về chợ Mộc Hoá. Trên bến, bác Tư gái còn đứng nhìn theo. Bóng của bác mất hút trong màn đêm buổi sớm. Tôi ngồi ở mũi xuồng, từng cơn gió lạnh trên sông thổi vào mát rượi. Một ngày mới lại bắt đầu, một chuyến hành trình mới của tôi lại tiếp tục. Trên những nẻo đường giong ruổi, tôi lại chất thêm vào hành trang ký ức của mình một kỉ niệm siêu linh… ngẩng lên nhìn bầu trời chi chít những ngôi sao, tôi có cảm giác như linh hồn của cô Châu đang là một trong những vì sao ấy… 

CHUYỆN KỂ VỀ XÓM TÔI
Tôi được sinh ra và lớn lên ở một quận vùng ven thành phố Sài Gòn. Căn nhà của gia đình tôi nằm sâu trong một con hẻm lớn. Muốn vào hẻm, người ta phải đi qua một con đường dài hơn trăm mét, hai bên tre mọc san sát. Ban ngày đi dưới bóng tre mát rượi , còn ban đêm… từ ngoài nhìn vào hẻm tối đen như mực, trông con đường như một cái hang khổng lồ ẩn chứa bên trong biết bao điều huyền bí. Bà con trong xóm đều là lao động nghèo, họ làm đủ nghề khác nhau để sống. Vợ chồng chú Sáu Lễ làm nghề xe nhang, chú đi lính biệt động quân bị đạp trúng mìn cóc tiêu hết một chân nên giải ngũ sớm, ở nhà cà nhắc nhồi bột cho vợ con xe nhang bán; bà Hai Hụi chuyên đi gom hụi mở các dây hụi khác nhau, nếu bà không đến nhà ai thì người ta cũng ra vào nhà bà nườm nượp. Vợ chồng chú Năm Bừa đi làm phu lục lộ, vợ chồng chú Út Thoại ra đường bán xăng lậu, ông Tư Cầu chạy xe ngựa … chỉ có gia đình ông Hai Cẩu là tương đối thảnh thơi. Con cái lớn rồi đi làm ăn xa, hai ông bà có một mảnh đất sau nhà gần đồng mã để lên vài ba liếp cải, mấy giàn bầu mướp, khổ qua…lai rai mỗi ngày cũng có chút đỉnh xài. Lúc trước ông chạy xe lam nhưng từ khi khá giả, ông bán chiếc xe ở nhà trồng trọt vớI bà Hai. Nhà ông bà cũng tương đối rộng rãi, lại có cái Tivi Nationnal 17inch nên luôn luôn là trung tâm điểm cho cả xóm. Lúc nhỏ, nhà tôi nghèo quá không có tiền mua Tivi coi nên thỉnh thoảng cũng ghé nhà ông bà coi ké. Những lúc Tivi không có chương trình hay, mọi người cứ theo thói quen tập trung lại ngồi nói dóc chuyện thế sự. Ôi thôi hằm bà lằng đủ mọi chuyện trên đời…từ chuyện mùa pháp nạn năm 1963 Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu cho đến chuyện Tết Mậu Thân hai bên bắn nhau dữ dội, từ chuyện bà Ngô Đình Nhu với đạo Cao Đài cho đến chuyện vợ chồng ông Thiệu với cái Long Đỉnh ở Thất Sơn… nhưng những chuyện mà lũ trẻ chúng tôi mê nhất vẫn là những câu chuyện ma không có hồi kết thúc…
Thiệt tình, bà con thích kể chuyện ma cũng có lí do. Khu vực chúng tôi ở giáp ranh với ngoại thành, nơi đó có một cây da cổ thụ hơn trăm tuổi, nhánh cây um tùm sà xuống le te sát đầu người. Từ lâu, chẳng có ai dám chặt phá nhánh cây. Nghe nói trước đây ban quản lý hội đình có mướn người mé nhánh cho quang đãng, nhưng thợ thầy mới chặt được một nhánh thì… ông thợ chính bỗng buông cưa ôm bụng oằn oạI, rồI co giật như mắc kinh phong. MọI ngườI hoảng hốt chạy đến cứu chữa thì bỗng ông ngồI bật dậy, mắt trợn dọc đập đầu vào gốc cây bôm bốp. Ông từ giữ đình phảI thắp hương cầu khấn mãi mớI êm. Thấy vậy, mấy ngườI thợ khác rủ nhau trốn biệt, không dám làm. Cây da ngày càng um tùm rậm rạp.
Bao quanh khu vực cây da là những ao sen, ao rau muống liên tiếp. Năm Mậu Thân, nghe nói rất nhiều người đã chết ở tại chỗ này. Con đường ở đây nằm trên trục lộ chính trong những mũi tiến công vào Sài Gòn của quân giải phóng. Quân Cộng hoà cũng đóng chốt dày đặc. Vô hình chung, khu vực xóm tôi trở thành bãi chiến trường ác liệt. Xác của binh lính hai bên và của những người dân chết oan chất đầy con đường, có xác chìm sâu trong những ao hồ quanh đó… Bình yên trở lại, một cái miễu cô hồn được dựng ngay gốc cây da, ban ngày khói hương nghi ngút cháy, ban đêm leo lét ánh đèn dầu.
Con đường tre vào xóm tôi cũng có nhiều người chết. Phía sau nhà ông Hai Cẩu lại là cánh đồng mã mênh mông. Mã lớn, mã nhỏ, mã người già, mã trẻ sơ sinh đủ loại. Mã nhà giàu thì có kim tỉnh bằng đá ong, đá mài. Mã ông Bá Hộ Huy thì chạm đá đá hoa cương, lạI xây nguyên căn nhà mồ tuyệt đẹp; mã người nghèo thì sơ sài tấm bia và gò đất; mã trẻ con chết non thì vun lên một nấm đất như cái thúng úp chẳng có mộ bia gì… Tối tối, có chuyện đi ngang đồng mã, thấy vài đốm lửa ma trơi lập loè trên mấy ngôi mã mới, không ai có đủ can đảm mà bước đi thong thả. Vì vậy, những câu chuyện ly kì rùng rợn về các loài ma trở thành đề tài hấp dẫn cho biết bao người trong xóm của tôi, kể cả người có đạo hay không có đạo, kể cả người tin lẫn kẻ không tin, kể cả người lớn và trẻ nhỏ. Dĩ nhiên, trong đó có… tôi. 

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÔNG CÓ HỒI KẾT 

1. CHUYỆN CỦA BÀ HAI CẨU 
Tối thứ Tư, chương trình Tivi thường có cải lương Hồ Quảng do đoàn Huỳnh Long hoặc Minh Tơ biểu diễn. Mấy người lớn tuổi trong xóm lục tục kéo đến từ hồi chạng vạng. Hôm nay đoàn Minh Tơ biểu diễn vở Thập Tam Thái Bảo, ai nấy náo nức chờ đợi.
Vậy mà ông nhà đèn lại nỡ phụ lòng người dân xóm nghèo. Đúng 6g45, chương trình Tivi mới bắt đầu thì … phụp- đèn tắt tối thui. Lũ nhỏ tụi tôi rên rỉ, người lớn thở dài, càu nhàu. Bà Hai Cẩu tức mình chửi bâng quơ:
- Bà nội cha nó, tiền điện hàng tháng mình đóng đủ. Vậy mà nó cũng không cho mình coi ti-qui nữa!
Ông Hai kêu mấy đứa con thắp đèn dầu. Một vài người trong xóm bỏ về. Còn lại hơn phân nửa nấn ná xem ông nhà đèn có đổi ý hay chăng. Tôi ngồi trong góc bộ ván, nép mình thu lu. Phần vì bắt chước những người ở lại nuôi chút hy vọng mong manh, phần vì cúp điện tối thui về nhà hay ở lạI cũng vậy thôi, …
Bà Hai Nhà in lên tiếng trước ( xóm tôi có thói quen gọI tên ngườI kèm theo nghề nghiệp của họ hoặc của chồng hay vợ):
- Cúp điện trời này sao tôi thấy giống năm Mậu Thân quá!
Thím Ba Cam tiếp lời:
- Trời cũng tối đen như mực thế này. Súng nổ ầm ầm, tui chỉ biết ẳm con Hà chui đại xuống gầm ván mà trốn.
Tôi nghĩ bâng quơ “ Thì ra con Hà cũng nằm dưới gầm ván giống mình. Hèn chi nó học ngu quá xá…”
Tiếng bà Hai Cẩu cắt ngang suy nghĩ của tôi:
- Lúc đó vừa nghe thiếng súng, ông Hai ẳm thằng Út Mười, tui ôm con Út Chín, mấy đứa lớn chạy lúp xúp theo sau. Đạn bắn đùng đùng trên đầu, may không chết hết rồi.
Bà Tư Cầu hiền lành ít nói nhất, bây giờ cũng góp lời:
- Mô Phật, dạo đó chỗ mình chết nhiều quá!
- Ừ, chết nhiều thiệt – Bà Hai Cẩu trả lời ngay – Tui nghe nói bên xóm thịt ngựa họ bị pháo dập chết gần chục người. Có người bị nhà sập đè chết, có người bị mảnh pháo mà chết…Thiệt là tội nghiệp. Ở trong nhà mà cũng bị mảnh pháo xẻ thịt, đúng là số.
Bà Tư nhỏ nhẻ:
- Bao lâu nay họ chuyên xả thịt ngựa, bây giờ họ lại bị xả thịt. Nghĩ lại bắt rùng mình. Sau dạo đó tôi không dám đi buổi tối đến cả năm trời. Cứ mỗi lần có công việc gì đi với ổng về, trời chạng vạng ngang qua cây da là tôi sởn cả da gà.
- Chị sợ là do tâm lí thôi, chứ có bao giờ chị bị ma nhát đâu – Cô Tư Gôm giờ này mới lên tiếng – ma nhát coi mặt người ta. Chỉ có mấy người yếu bóng vía mới thấy ma thôi, còn nặng bóng vía, muốn thấy cũng không làm sao mà thấy được. Trong xóm mình, có mấy ngườI thấy ma đâu?
- Từ Mậu Thân đến giờ thì tui không thấy ma, chứ hồI mớI dìa đây ở tôi gặp một chuyện kinh khủng mà đến giờ nhắc lạI tui còn nổI gai ốc – Bà Hai Cẩu nói.
MọI ngườI nhao nhao: “ Kể đi chị Hai, kể đi…”
Hớp một ngụm nước trà thông giọng, bà Hai cất giọng nhừa nhựa:
“ Lúc đó tui nhớ là năm Thìn. Thằng Nhiệm Lớn được một tuổI là tui vớI ổng dọn nhà từ ấp chiến lược về đây ở. Ngày đó ở đây có vợ chồng anh Bảy Nhà Báo vớI vợ chồng Bảy Tình Liên gia trưởng. Tui vớI ổng che tạm cái chòi lá ở ngay nền nhà này sống bằng nghề gói bánh tét đi bán dạo. Công việc cực thì có cực đó, nhưng sống cũng đắp đổi.
Bữa đó tui đi giao bánh sớm, đi ngang qua chỗ miếu Ngũ hành bây giờ, tui thấy một ông già ngồI dựa gốc cây, cầm cái quạt phe phẩy. Tui vừa ngạc nhiên vừa tức cườI, trờI khuya sương xuống lạnh ngắt như vầy mà ngồI quạt, ông già này chắc bị tâm thần; vừa nghĩ vừa đi, ai dè ngang qua chỗ ngồI của ổng, ổng chợt kêu giật giọng: “ Có bánh tét nóng bán cho mấy đòn” . Không biết tính sao, tui hạ gánh xuống cắt cho ổng hai đòn bánh mỡ. Loáng cái ổng làm sạch bách, lạI còn đòi thêm, cắt cho hai đòn nữa ổng cũng làm cái ào hết trơn. Trong chốc lát, ổng ăn sạch nửa chục bánh tét. Ăn xong, ổng hỏI tiền, tui nói giá xong, ổng biểu tui đi bán xong rồI quay lạI lấy sau. Thấy trờI còn tốI, đường lạI vắng, đôi co vớI ông này nghĩ không có lợI, tui tự nhủ thầm phen này mất toi hết nửa chục bánh. Thế là tui đứng dậy gánh giỏ bánh đi luôn. Đi khoảng chục bước, tui quay lạI dòm… TrờI đất ơi! mấy bà biết gì không?
Bà Hai Nhà in nhổ cổ trầu ra đất cái toẹt, vừa quẹt mép vừa nói:
- Thì chị cứ kể luôn đi, có ái biết gì mà trả lờI!
- Tui thấy… tui thấy ông già cứ bự dần lên như cái bong bóng thổI to, mớI đầu ổng bằng cái bao gạo, sau đó bằng cái miễu nhỏ, rồI bằng mái nhà, cuốI cùng ổng cao bằng ngọn tre đầu hẻm luôn. Tui nói…tui quăng gánh chạy bò càng, vừa chạy vừa la bài hãi, bỏ luôn buổI chợ…
Ông Hai Cẩu phụ hoạ:
- Bữa đó tui mớI đánh xe ra, tính qua xóm bên chở mốI đi chợ, thấy bả chạy xấc bấc xang bang về nhà, mặt mày thì hớt hơ hớt hảI, cắt hổng còn chút máu, miệng thì cứ ngáp ngáp chỉ ra ngoài hướng chợ. Tui chẳng hiểu ất giáp gì hết trọi…
- RồI sau đó làm sao? – Cô Tư Gôm nóng ruột nói chen vào.
- Thì … tui một mình quay ra chỗ bả chỉ, thấy quang gánh bả quăng bên đường, hai trạc bánh tét ngã bù lăn bù lóc… xung quanh đâu có ai đâu. Đành phảI bỏ mốI quen ở xóm trên mà chở bả ra chợ giao bánh cho kịp.
Bà Tư Cầu trầm ngâm:
- Theo tui thì đây hổng phảI ma đâu. Chắc là chư vị nào đó muốn đùa cợt chút thôi mà.
- Tui cũng nghĩ vậy. Hổng hiểu sao từ ngày xảy ra chuyện đó về sau, ở nhà làm ăn xuôi chèo mát mái. Bán buôn cũng khấm khá hơn. Có được chút vốn, vợ chồng tui sang lạI miếng đất của ông Năm Trước trồng tỉa chút đỉnh cho đến bây giờ. Lâu lâu nhớ ổng, tui cũng cúng cho ổng mâm cơm vớI nửa chục bánh tét - Bà Hai kết thúc câu chuyện. MọI ngườI trầm ngâm suy nghĩ. Có lẽ mọI ngườI đang ước mơ một ngày nào đó được gặp ông già quái dị này chăng?
Sau này, khi lớn lên, được học đạo vớI sư công, tôi có kể lạI câu chuyện này. Nghe xong, sư công tôi mỉm cườI nói: “Đó là ông chủ thổ. Ai gặp được ông ấy là có duyên lắm. Trừ phi mình bỏ vùng đất này mà đi, chứ ở lạI nơi đó sẽ được phù hộ quanh năm” 

CHUYỆN CỦA ÔNG TƯ CẦU
Bỗng, cô Tư Gôm quay sang bà Tư Cầu hỏI:
- Anh Tư mấy hôm nay đỡ chưa vậy chị?
- Mô Phật, ổng khoẻ lạI rồi. Nhưng hơn tuần nay ổng không chịu đánh xe ngựa nữa. Báo hạI mốI mang ngườI ta la quá trời. Thằng Mỹ phảI xin nghỉ làm nửa buổI ở nhà đánh xe thay ổng…
Chuyện của ông Tư Cầu tôi cũng có nghe lỏm bỏm. Thấy ngườI lớn họ nói vớI nhau về chuyện này có vẻ kín đáo lắm. Hình như là ông gặp ma thì phải. Từ hôm đó đến nay gần một tháng, chẳng thấy ông ra ngồI dướI cây táo trước sân nhậu khô sặc nữa. TụI nhỏ bọn tôi cũng sờ sợ, không dám lảng vảng hái táo nhà ông như trước đây.
Bà Hai Nhà in vừa bỏ miếng trầu vô miệng vừa trệu trạo nói:
- Mấy bữa xóm trong cứ xì xào chuyện anh Tư mà tui hổng có để ý lắm. Chỉ nghe nói ảnh bịnh rồI qua thăm vậy thôi. Nay ảnh khoẻ rồI, thôi thì chị kể lạI chuyện của ảnh cho mọI ngườI rõ một chút được không!
- Mô Phật. Chuyện cũng chẳng có gì. Chỉ tạI ổng sợ quá rồI phát bịnh thôi. Chuyện như vầy…
3 giờ sáng, như thường lệ, ông Tư đánh xe ngựa lên Bình Trị Đông chở mốI hàng bông. Không khí trở lạnh hơn mọI khi, thỉnh thoảng vài cơn gió thổI qua làm ông khẽ rùng mình. Thò tay vào túi lấy cuộn giấy quyến và bọc thuốc rê, chuyển sợI cương ngựa xuống quấn vào ngón chân cái, ông cặm cụI vấn một điếu thuốc rồI bật cái hộp quẹt zipo châm lửa hút. Một làn khói trắng tuôn ra từ cái miệng móm xọm của ông rồI nhanh chóng lan toả vào không gian mù mịt. Bập được vài hơi, ông Tư cảm thấy ấm hẳn. Thả bọc thuốc rê vào sàn xe, ông dựa vào thành xe, mắt lim dim tận hưởng cái cảm giác lâng lâng của khói thuốc. VớI tay nắm nhẹ dây cương, ông cho con ngựa chạy nước kiệu…
Chợt, con ngựa của ông Tư hí nhỏ một tiếng rồI khựng lại. Giật mình, ông Tư vộI gò cương ngựa chồm dậy nhìn. Trong ánh sáng mơ hồ của ánh trăng hạ tuần đã xế bóng và ánh đèn bão móc trên tay nắm của xe, ông Tư nhìn thấy một cô nữ sinh mặc chiếc áo dài trắng đang đứng bên đường ngoắc xe.Ghì cương cho con ngưạ đứng hẳn lạI, ông Tư cât tiếng hỏI:
- Làm cái gì mà đêm hôm khuya khoắt chận xe ngườI khác vậy hả?
- Dạ, con đi học ở Sài Gòn. Hôm nay Chủ nhật về sớm thăm nhà, bác làm ơn cho con quá giang một đoạn – Tiếng cô gái nhỏ nhẽ trả lời.
- Thăm nhà thì cũng đợI sáng rồI đi chứ?
- Dạ, con ở nhờ bà con trong xóm thịt ngựa. Tranh thủ đi về sớm để chơi vớI nhà lâu chút. Chiều là con phảI lên Sài Gòn lạI rồi.
- Con gái con đứa, đêm hôm khuya khoắt, đi một mình ngoài đường vắng như vầy, gặp ma có ngày…
Tiếng cô gái cườI:
- Dạ, con chỉ sợ ma cô thôi. Bác cho con quá giang lên chợ Gò Cát được hôn bác?
- Tao chỉ chạy tớI Bình Trị Đông hà…
- Dạ, vậy cũng được. TớI đó rồI con tính tiếp.
- Được rồI, lên sau xe đi. Thiệt tình, tuổI trẻ tụI bay sau này không hiểu nổi. Khuya lắt khuya lơ, đứng bên đường lạI còn mặc áo dài trắng nữa, làm tao cứ tưởng…
Mãi lo nói, ông Tư không để ý con ngựa cứ dậm chân khịt mũi,vẻ bồn chồn. Ông cũng không để ý chiếc xe ngựa chẳng hề trì nặng xuống phía sau như lệ thường mỗI khi có ngườI leo lên. Ông lạI tiếp tục giật cương cho con ngựa rảo bước…
Chiếc xe chồm lên rồI lạI lóc cóc lăn trên con đường nhựa nham nhở đá. Ông Tư cũng chẳng buồn quay lạI phía sau, và cũng chẳng nghe cô gái nói năng gì.
“ Con gái bây giờ thiệt lạ - Ông Tư nghĩ thầm- ngày xưa làm gì có chuyện đi khuya về sớm một mình một chợ như thế chứ. Ngẫm lạI gia đình nào không chịu dạy dỗ cho đàng hoàng, rủI có chuyện gì thì… Ôi mà chuyện của ngườI ta hơi đâu mà nghĩ…”
Một cơn gió lạnh thổI qua, ông Tư bất giác rùng mình. “ PhảI làm một điếu nữa thôi” - Vừa nghĩ, ông vừa vớI tay ra sau lấy bọc thuốc rê… Bỗng, tay ông chạm phảI một thứ gì đó dài dài, trơn muợt… Theo phản xạ tự nhiên, ông rụt tay và quay phắt lạI nhìn… Quỷ thần ơi! Không có cô gái nào cả. Phía sau xe ngựa là một mái tóc dài đậm đà đậm đuột xả từ trên nóc xe vắt vẻo qua thành xe trảI một đống trên sàn xe ngựa. Trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn bão , mái tóc dài đung đưa theo nhịp lắc lư của chiếc xe ngựa càng trở nên rùng rợn. Thần hồn nát thần tính, ông Tư Cầu vừa nhảy phóc xuống xe ngựa vừa hét: “ Cha mẹ ôi! Ma…ma…a…”
Con ngựa kéo xe cũng giật mình hí lên một tiếng rồI chồm bốn vó chạy băng về phía trước. Tiếng ngựa hí làm ông Tư sực tỉnh hồn. Ông liền đuổI theo chụp lấy càng xe ghì mạnh lạI, miệng hô to : “Họ…họ…ọ…”
Chiếc xe còn trớn lăn thêm hai vòng nữa rồI dừng hẳn. Ông Tư giơ tay áo quẹt mồ hôi trán đẫm ướt tự bao giờ, thở hào hển. Trên xe trống rỗng. Ngẩn ngơ một chút, ông Tư tiếp tục lên xe, ra roi cho cho ngựa lên đường.
Mặc dù tim còn đập thình thình, mệt thở hào hển, ông Tư vẫn không quên làm một điếu thuốc rê. Quái, bọc thuốc rê đâu rồI? Có lẽ nó bị rơi trong lúc xe chạy giằng xóc. Ông chép miệng như tiếc nuốI “ Thôi. Đến chợ rồI xin ai đó một điếu hút bậy cũng được”.
Con đường độc đạo đến chợ Bình Trị Đông phảI qua một dãy ao sen và cánh đồng mã lạng. Xa hơn, phía bên trong là vành đai ấp chiến lược những năm trước Mậu Thân. RảI rác mớI có một căn nhà trơ trọI giữa khoảng không bao la. Xe gần tớI chợ, ông Tư nhìn lên bầu trời. Trăng gần xế. Hơn ba giờ rưỡI rồI, chắc giờ này bạn hàng cũng đang gánh ra chợ. Chép miệng, ông Tư lạI thèm thuốc.
Có tiếng nói cườI vang lên. Phía trước ông, ngay khoảng trống vào gò mã lạng, hai ngườI đang ngồI nói chuyện. “Chắc là dân đi soi ếch ban đêm” – Ông Tư nghĩ thầm. Thấy một trong hai ngườI đang hút thuốc, ông Tư gò cương ngựa cho xe dừng lạI, nhảy xuống đi chậm rãi lạI chỗ hai ngườI đang ngồi.
- Anh em có thuốc rê cho tui xin một điếu!
Hai ngườI vẫn ngồI thu lu như có vẻ lạnh. Tỏ thái độ tự nhiên, ông Tư ngồI xuống bên cạnh, mở lờI xuề xoà:
- Mấy anh em đi soi ếch hả?
- Ừm…ừm…m - NgườI hút thuốc trả lờI ậm ừ trong cổ họng.
- Đi đêm đi hôm nhiều khi gặp phảI mấy thứ gì không hà - vừa đón lấy bọc thuốc rê từ tay ngườI đàn ông hút thuốc, ông Tư vừa nói - hồI nãy tui bị một vố suýt chết vì sợ luôn.
- Vố gì mà sợ dữ vậy? – Hai ngườI đàn ông có ve chú ý.
- Tui tin mấy chú mà gặp cũng sợ chết đứng như tui thôi – tay vân vê cục thuốc, ông Tư trả lờI - hồI nãy chạy trên đường, tui gặp ma…
- Ma hả? nó ra làm sao vậy?
- Lúc đầu nó hiện thành đứa con gái mặc áo dài trắng, lát nữa nó biến thành mái tóc dài thòn vắt vẻo trên thành xe ngựa thấy phát ớn.
- Vậy mái tóc nó dài cỡ nào?
Ông Tư bực mình:
- HỏI chi kỹ vậy? lúc đó sợ gần chết làm sao tui nhớ nổI chứ.
- Vậy, nó có dài bằng cỡ này không? – nói xong hai ngườI cùng đứng dậy. NgườI đàn ông hút thuốc chụp lấy đầu ngườI kế bên vặn ngược ra sau, rồi… nắm lấy đầu tóc của ông ta kéo ra. Nắm tóc cứ dài dần, dài dần theo bàn tay kéo của ngườI kia.
Ông Tư há hốc mồm, thả rơi cục thuốc rê. Ngực ông nặng ì như bị đá đè, hai lỗ tai kêu vo vo, thân hình cứng đơ như khúc củi. Trong giây lát, mái tóc của ngườI đàn ông kia bị kéo dài xoả thành một đống dướI đất. Trong bầu trờI khuya mờ mờ ảo ảo, hai con ngườI cùng vớI nắm tóc đổ dài khiến cho ông Tư muốn ngất xỉu… Giây lâu sau, như kịp định thần, ông Tư chỏI hai chân đạp đạp về phía trước lết ngườI lùi lạI, rồI ông chụp dây cột cương con ngựa kéo chạy bán sống bán chết, lần này ông không la được một tiếng nào…
***
Bà Tư Cầu thở dài kết thúc câu chuyện:
- Mô Phật. BuổI sáng hôm đó, mớI dọn cháo ra bán thì một chú tiểu ở chùa Vạn Phước tìm đến hỏi. Nghe kể lạI thì nhà chùa thức dậy tụng kinh thờI khuya, thấy ngoài cửa có chiếc xe ngựa mớI chạy ra dòm. Mấy thầy nhìn thấy ông nhà tui nằm sấp bất động bên chiếc xe mớI đưa vào trong cứu tỉnh. PhảI để ổng ở lạI chùa cho mấy thầy dọng ĐạI Hồng chung ba ngày ổng mớI tỉnh táo hoàn toàn.
Sau này nhớ lạI, tôi không biết lần gặp ma ấy của ông Tư là tốt hay xấy nữa. BởI vì từ đó về sau, ông ăn chay, hay đi chùa. Con ngườI thay đổI hẳn. Lúc bà cố ( má của ông Tư ) bệnh gần mất, ông cùng ban hộ niệm quây quần quanh giường niệm Phật cả tuần cho đến lúc bà đi xuôi luôn. Nghe mấy ngườI tẩn liệm nói lúc đưa vào hòm, đỉnh đầu của bà vẫn còn nóng hổI . 

NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA MÁ

Nhà tôi cũng làm nghề gói bánh tét. Tính đến tôi tổng cộng là bốn đời. Cái gánh bánh tét ấy đã đưa gia đình tôi qua những chặng đường gian khổ nhất, nuôi ba tôi vào trường Petrus Ký rồi đi du học nước ngoài (xin nói thêm, ngày xưa được du học là hoàn toàn miễn phí, lạI còn được cấp học bổng nữa). Cũng nhờ cái gánh bánh tét này mà chúng tôi được trưởng thành. Nhiệm vụ của mấy anh em tôi là mỗI sáng thức dậy lúc 5 giờ để phụ cột bánh, xâu bánh lạI theo chục và chất bánh vào nồI để nấu. Trẻ con thức dậy sớm thường hay buồn ngủ. Thằng em tôi ngồI cột bánh mà nó mổ như gà. Còn tôi, bà nộI kêu châm nước thêm vào thùng nấu bánh, tôi bưng luôn nguyên thùng trấu đổ vô nồi… báo hạI bữa đó bị mấy roi cháy đít..
Những lúc biết tụI tôi quá buồn ngủ, nộI tôi thường kể chuyện đờI xưa. Có những câu chuyện nghe đi nghe lạI mãi mà không biết chán: chuyện Thạch Sanh chém Chằn, chuyện Chàng nhái Kiểng Tiên, chuyện Đứa con trờI đánh… Cho đến giờ, tôi vẫn nhớ in những câu thơ nộI đọc:
“Đờn kêu trách bấy Lý Thông
Nỡ quên hiền đệ đem lòng bạc phai
Đờn kêu ai bắn chim bay
ĐạI bàng gãy cánh chạy dài xuống hang
Đờn kêu tích tịch tình tang
Ai đem công chúa lên thang mà về…”
Có khi nộI mệt, tôi xung phong kể chuyện cho nộI nghe. Quẩn quanh vẫn là các chuyện tiếu lâm, chuyện xe cán chó … mà tôi nhặt nhạnh được trong những lúc lê la trong xóm. Đặc biệt, mấy câu chuyện ma tôi kể tạo cảm hứng cho mọI người. Chỉ có cô Ba tôi bị lãng tai không nghe, còn lạI đều im lặng một cách tôn trọng làm tôi rất cao hứng. Các câu chuyện ma tôi kể làm má tôi nhớ về những năm tháng còn ở vớI ngoại. Và đây, hồI ức và những câu chuyện ma của má tôi…

Quê ngoạI của tôi ở Củ Chi, quê hương của địa đạo, nơi từng được khen tặng danh hiệu “Đất thép thành đồng”. Suốt hai trào Pháp Mỹ, gần phân nửa số dân ở đây đã về vớI đất. Từ những ngườI dân thường vô tộI cho đến những ngườI cầm súng… đạn bom không chừa một ai. HồI chín năm (bà con có thói quen gọI thờI kì chống Pháp giai đoạn 1945 – 1954 như thế), vùng quê ngoạI tôi nằm giữa hai chiến tuyến - một bên là quân độI giáo phái Cao Đài thân Pháp và một bên là Việt Minh. NgườI dân vì không nỡ rờI bỏ mảnh đất tổ tiên, nên trở thành nạn nhân của cả hai phía. Ban ngày, lính Cao Đài vào nhà yêu cầu gia đình phảI dán cờ đạo để được bảo hộ. Ban đêm, Việt Minh đến gõ cửa những căn nhà có dán cờ, đưa chủ nhà đi biệt tích. NgườI dân luôn sống trong cảm giác thấp thỏm lo âu, sợ hãi không biết khi nào sẽ tớI mình…. Vậy là, bà con phảI sống theo “con nước”. Lính đến, cờ dán lên. Lính đi, cờ hạ xuống… Chỉ một giai đoạn chín năm, không biết bao nhiêu ngườI đã trở thành cô hồn dã quỉ theo cách như thế.
Má tôi kể, Ở phía trên làng, gần bìa rừng có một mộI nước rất ngọt (mộI: hố nước tự nhiên, sâu chỉ khoảng tớI ngực ngườI lớn, nơi mạch nước ngầm chảy vào, rất trong, không bao giờ cạn), bà con trong xóm thường lấy nước này về xài. Những năm gần giảI phóng, không hiểu vì sao đất lở lấp mộI nước gần hết, bà con liền ra tay nạo vét và xây ximăng bao quanh. Trong quá trình làm, ngườI ta phát hiện ngay cạnh mộI nước là một cái hố chôn gần 300 cái đầu lâu đủ cỡ, không biết ở đó tự bao giờ. Bà con đào lên rửa sạch từng cái rồI làm lễ an táng chung trong một cái mã lớn gọI là mã đầu lâu. Từ đó không ai dám uống nước ở mộI nước này nữa.
ThờI kỳ lính Mỹ tấn công Củ Chi mớI là giai đoạn ác liệt nhất. Bà con bị gom hết vô ấp chiến lược. Chú SAM mở các trận càn vào khu địa đạo, trong đó qui mô nhất là trận càn mang tên “ Bóc vỏ trái đất”. Bom , pháo, đạn, chó Bẹc-giê, lính Sài Gòn, lính Mỹ…đổ xuống dày đặc bắn nhau suốt mấy tháng liền… Chiến sự đi qua, để lạI trên vùng quê của ngoạI bao tang tóc. Những xác chết không còn hình dạng, những khúc xương, mảnh thịt tung toé hoà lẫn vào trong đất, trở thành phân bón cho cây. Có những căn hầm trú ẩn bị bom dộI trúng chỉ còn lạI một hố sâu thẳm thẳm nghi ngút khói…
Thể xác hoà trong đất, anh linh của những ngườI đã chết vẫn còn phảng phất trong sương khói…
Bên cạnh đám ruộng của ngoạI tôi là ruộng của ông Năm Giàu. Ngày đầu sau giảI phóng, về nhận lạI đất ruộng để cấy cày, ngườI nhà ông Năm cày lên từng khúc xương đầu, xương ống, có cả những mảnh bi- đông nước, vảI dù… Lẽ ra họ phảI gom lạI và an táng để an ủI vong linh, đằng này nhặt được khúc xương nào họ lạI quăng chài lên bờ khúc đó, lạI còn chửI rủa lầm bầm. Hôm ra ruộng ngoạI tôi nhìn thấy bất nhẫn có lờI nhắc nhở, thằng Hai Đực con ông Năm còn lớn tiếng:
- Chết là hết rồI! Mắc nợ gì mà tụI tôi phảI chôn cất cúng bái chứ. Nếu bà dị đoan quá thì cứ rước về mà cúng.
NGoạI tôi chỉ biết thở dài, kêu cậu Năm tôi ra thu nhặt đem chôn cất cẩn thận. Ba tháng sau, ruộng các nơi bị sâu rầy phá hạI, thiệt hạI không nhỏ. Ruộng nhà ngoạI cũng bị rầy cắn phá đôi chút. Chỉ có ruộng nhà ông Năm Giàu là vẫn xanh mượt mà, không có bóng dáng một con rầy nào. Ai cũng cho là lạ. NgoạI tôi lén thở dài: “Ông trờI không có mắt…”. Mấy tháng sau nữa, lúa chín vàng, mọI ngườI bắt đầu thu hoạch. Kì lạ làm sao! ruộng lúa nhà ông Năm vẫn cứ một màu xanh ấy từ lúc lúa ngườI ta trổ đòng đòng, ngậm sữa rồI chắc hạt, vàng hạt. Đến khi ai nấy thu hoạch xong xả rồI, xung quanh chỉ còn trơ gốc rạ, đám ruộng ấy vẫn cứ xanh mượt như cỏ non, không có một bông lúa… NgoạI tôi lạI nói: “ TrờI cao có mắt. TạI mình không chịu tin đó thôi”…
Trong cái xóm nhỏ dướI chân dốc Bến Mương, ngoạI tôi được bà con yêu thương vì biết sống tốt vớI mọI người. NgoạI hiền và đức độ, vậy mà bà thường xuyên gặp ma mớI là chuyện lạ. HồI đó, thỉnh thoảng má tôi lạI thấy ngoạI đứng trước sân nói chuyện bâng quơ vớI ai đó. Khi ngoạI vào nhà, má hỏI thì ngoạI trả lờI ậm ừ : “ Thì… mấy chú lính đó mà!”. Những lúc như vậy thì ngay hôm sau, thế nào má cũng thấy ngoạI nấu một nồI cơm gạo thơm, đánh ra, vò thành nắm như trứng vịt rồI bày ra cái sàng tre có lót lá chuốI, kèm theo dĩa muốI tiêu, mấy lát hột vịt, có khi là vài miếng khô cá trèn xé nhỏ. NgoạI bưng ra ngoài đầu ngõ, đặt dước gốc cây to nhất và lặng lẽ thắp nhang, nói chuyện một mình. Về sau, ngoạI mớI kể lạI cho má nghe rằng anh linh của các chiến sĩ trận vong không tan đi, họ vẫn tìm về thăm ngoạI như những ngày ngoạI còn nấu cơm nuôi quân. Những lúc nghe tay chân phát lạnh, ở trong nhà mà gió cuộn dướI chân liên tục, bụng bồn chồn là biết các anh các chú đang về ở ngoài vườn. NgoạI lập tức chạy ra ngay, y như rằng trước mặt ngoạI là vô số bóng hình đứng ngồI lố nhố ẩn ẩn hiện hiện sau mấy tán cây. NgườI thì tay chân mất hết, ngườI thì dập nát nửa đầu, ngườI thì bị pháo cắt ngang nửa ngườI chỉ còn một phần thịt dính lủng lẳng… có một điều là họ luôn tỏ vẻ mừng rỡ khi gặp ngoại. “ Lúc đầu thì sợ thiệt - NgoạI nói – nhưng riết rồI cũng quen, thấy thương nhiều hơn sợ”. Ước mong của ngoạI là tìm một vị cao tăng về lập đàn tràng siêu độ cho các vong linh ấy. NgoạI nói : “ Bây giờ tao còn đây, còn cúng cho mấy chú đó. Ngày nào tao chết, biết ai lo cho họ…”. NgoạI tôi là một ngườI bình thường không đi chùa, không tụng kinh niệm Phật. Nhưng ngoạI sống bằng cả tấm lòng, cho dù ngườI đó còn sống hay đã chết… 

… Tôi nhớ những năm đầu sau giảI phóng, Sài Gòn bị một trận đói tàn khốc, phảI ăn độn khoai sắn, bột mì, lúa mì viện trợ. Má tôi lập tức di tản tôi về ngoại. Cuộc sống ở quê lam lũ mà vui. MỗI sáng 4 giờ, ngoạI thức dậy gánh hai giỏ bánh bò và bánh da lợn lên chợ bỏ mối. Có hôm, tôi nằng nặc đòi theo, ngoạI lắc đầu mãi rồI cũng đồng ý. Con đường ra chợ chỉ có 5 cây số nhưng tốI đen như mực, phảI đi qua một con dốc và hai cánh rừng mớI đến nơi. Con đường này ban ngày đạp xe đạp đi chở mía tôi đâu thấy sao đâu. vậy mà lần đầu đi đêm vớI ngoạI mớI cảm thấy đáng sợ. NgoạI gánh gồng đi trước, tôi xách cái giỏ lót tót đi sau. Một tiếng chim ăn khuya đột ngột cất lên cũng đủ làm tôi giật thót mình. Vừa đi, vừa niệm “Án ma ni bát di hồng” liên hồI kì tận.
Bất chợt ngoạI dừng gánh làm tôi suýt đâm sầm vào giỏ sau.
- Chuyện gì vậy ngoại.
- Ờ, con chờ chút.
Vừa nói ngoạI vừa lấy ở giỏ trước ra một cái bánh bò và cái bánh da lợn gói sẵn trong lá chuối. NgoạI tiến đến gò mốI lớn cạnh bìa rừng, để xuống chân gò và xoè diêm châm đỏ mấy cây nhang đã chuẩn bị sẵn. Mùi khói nhang phảng phất trong không gian buổI sớm làm tôi tỉnh hẳn người… Xong việc, bà cháu lạI lên đường. Thắc mắc mãi, cuốI cùng ra đến chợ tôi cũng đánh bạo hỏI đạI:
- Sao ngoạI cúng ở đó vậy ngoạI, chỗ đó thờ ông địa hả?
NGoạI khoát tay tỏ ý ngăn tôi lạI:
- Để lúc rảnh ngoạI kể cho nghe.
Và ngoạI đã thực hiện lờI hứa. Lúc ấy, tụI tôi đã xay bột làm bánh xong. Trong khi chờ mợ Năm tôi làm cơm, ngoạI bắt đầu kể…
…HồI mớI giảI phóng, con đường chưa tráng nhựa. NgoạI vẫn như lệ thường gánh bánh ra chợ bán. Con đường đất sáng ánh trăng nên ngoạI đi khá dễ dàng. Bất chợt, trước mắt ngoạI tốI mịt mù như có ai đó lấy vảI đen che kín tất cả. Quờ quạng trong màn đêm đen kịt, lúc đầu ngoạI cũng hơi hoảng hốt. NgoạI chợt nhớ đến câu chuyện của ông Năm Bảng… Ở đây có một thứ ma gọI là ma giăng hàng. Nó thường nắm tay giăng hàng quanh ngườI tạo thành ảo giác khiến cho ngườI bị nhát tốI tăm mặt mũi không thấy đường sá gì cả. Ông Năm đã từng bị trêu ghẹo như thế nhiều lần, nhưng ông có cách giảI quyết hiệu quả vô cùng… Ông lột trái quần ra, tròng lên đầu, rồI tháo hai chiếc guốc dông cầm tay, vừa đi vừa gõ… cứ thế mà về được đến nhà.
Nhưng ngoạI không làm như ông Năm được. Đứng thần ngườI trong khi trước mắt đen kịt một màu, lẳng lặng một lúc lâu ngoạI mớI cất lờI:
- Mấy ông mấy bà ơi! Toàn là dân nghèo mình vớI nhau không hà. Sao nỡ lòng nào đi phá khuấy như thế. Cũng còn để cho bà con kiếm sống vớI chứ. Nếu các vị có buồn phiền gì cũng xin hỷ xả cho nhẹ lòng, còn nếu có đói thì tui sẽ làm mâm cơm cúng. Để cho tui ra chợ buôn bán với…
Thở than trong giây lát, trước mặt ngoạI sáng dần lên. NgoạI thấy mình đang đứng trước bìa rừng, cạnh một gò mốI lớn. Đó chính là gò mốI mà tôi đã kể. Lúc ấy, bên cạnh gò mốI là một ngườI đang đứng. Trong ánh sáng mờ mờ của bầu trờI, ngoạI thấy ngườI đó mặc chiếc áo bà ba đen, cột cái khăn rằn ở bụng – cách ăn mặc của những cán bộ hồI chín năm. Có một điều đáng sợ hơn là … bóng ngườI đó không có đầu. Cái bóng cụt đầu sừng sững trong đêm làm ai thấy cũng phảI thất kinh hồn vía. NgoạI tôi cũng sợ điếng hồn, nhưng rồI ngoạI nhanh chóng lấy lạI bình tĩnh. Những hình ảnh này đốI vớI ngoạI không quá xa lạ, chỉ có điều hơi cảm thấy bất ngờ…
- Chú ơi! - ngoạI lên tiếng – Chú sống khôn thác thiêng, anh linh của chú ở lạI đây hưởng khói hương phù hộ bà con. Đừng nhát ngườI ta tộI nghiệp.
Cái bóng cụt đầu khẽ lay động như muốn nói điều gì. Nhưng rồI sau đó cái bóng mờ dần và biến mất hẳn. Lúc bấy giờ ngoạI cũng không hiểu nguyện vọng của bóng ma. Nhưng đúng lờI hứa, mỗI ngày đi chợ ngoạI đều ghé ngang gò mốI thắp cây nhang, cúng hai cái bánh.
- Từ đó đến giờ còn thấy nữa hôn ngoạI? – Tôi sốt ruột ngắt lời.
- Không. Kể từ dạo đó đến giờ không chỉ ngoạI mà những ngườI khác cũng không còn thấy nữa. Chắc là họ đi rồi…
Sau này nhớ lạI, tôi không tin những anh linh đó đã đi mất, chỉ có điều không hiện hình đấy thôi. Họ vẫn còn ở đó bên những cánh rừng, nơi chôn vùi thân xác họ. Thể xác không nguyên vẹn thì linh hồn làm sao an được. Giá mà có ai tìm được hài cốt của họ qui tập trở về hoặc có ngườI lập trai đàn chẩn tế thì tốt biết bao… 

CHUYỆN CỦA TÔI
Sinh ra và lớn lên ở một nơi đầy rẫy huyền thoạI như cái xóm Chuồng Trâu, ngườI ta không tin ma, không sợ ma mớI là chuyện lạ. Trước nhà tôi có trồng một cây dừa bị. Cây dừa không ngọt nước bằng dừa xiêm nhưng trái to, có quanh năm. Ngọn dừa cao quá nóc nhà. Lũ nhóc trong xóm thường kháo nhau cây dừa có ma. Chúng nó kể bà Tư quán ở xóm trong có việc đi về khuya, ngang qua cây dừa, bà thấy có một quả cầu lửa cháy nhờ nhờ như lửa ma trơi. Cầu lửa bay qua bay lạI như múa, đáp từ tàu dừa này qua tàu dừa khác rồI sau đó vót qua đậu trên ngọn tre của nhà chú Năm Bừa đốI diện. Sợ đến ríu chân, bà ngồI thụp xuống mà niệm Phật. Giây lâu mở mắt nhìn lên, không thấy gì nữa bà mớI bươn bả về nhà…
Không biết câu chuyện có bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng gia đình tôi ở đó lâu rồi không hề thấy có con ma nào hết trơn. Cho đến năm 1979, ba tôi bán nhà cho bà Hai Nhà in và dọn nhà đi chỗ khác ở mớI có sự lạ xảy ra.
Một buổI trưa tháng Hai, bầu trờI đang nắng gắt. Mây đen bỗng kéo tớI đầy trời. Ai nấy còn đương ngạc nhiên vì cơn mưa trái mùa thì … RẦM… một tiếng nổ long trờI lở đất, cây dừa bị trờI đánh tét ngọn ra thành ba miếng, khói bốc mù mịt. Cả xóm thất kinh hồn vía, bà Hai HụI ở sát nhà tôi lật đật lấy nhang ra đốt, sì sụp vái lạy. Nghe mọI ngườI kể, tôi cũng tức tốc trở về nhà cũ để xem, cây dừa cháy đen cả ngọn. Phần trên bị tét loe ra trông thê thảm làm tôi bần thần cả người. Hổng lẽ cây dừa này có quỷ thật. Nếu không thì làm sao bị trờI đánh chứ… cho đến giờ câu hỏI của tôi vẫn chưa có lờI giải đáp thích đáng. Ba tháng sau sự việc sét đánh, bà Hai nhà in đột ngột phát bệnh. Căn bệnh kéo dài hai năm rồI bà Hai qua đời. Bác sĩ nói bà bị bệnh ung thư, bà con trong xóm lạI đồn đãi vì mua nhà tôi nên bị xui xẻo…
***
Trở lạI chuyện tôi, càng nghe kể nhiều chuyện ma thì tôi lạI càng … sợ ma kinh khủng. Đã vậy, tôi còn mê đọc truyện tranh “Con quỷ truyền kiếp” nên óc tưởng tượng của tôi lạI càng phong phú hơn. MỗI tốI, sau khi cắp rỗ bánh qui, bánh ít đi bán dạo về, tôi thường ngồI lì ngoài đầu hẻm. Nhìn vô con hẻm tốI thui sâu hun hút hai bên tre mọc uốn oằn xuống như hang động, tôi sợ teo cả người. Khi nào có một ngườI lớn đi vào, tôi mới thừa cơ hộI đi theo. Những hôm xui xẻo chờ cả tiếng đồng hồ không có ai vô, tôi đành liều vô đại. Cắp chặt rỗ bánh trong tay, lần từng bước chậm chạp vào hẻm, tôi có cảm giác con hẻm giống như cái miệng của con quỷ truyền kiếp khổng lồ đang há to nuốt tôi vào dần. Vừa khuất chỗ đèn sáng, tôi cắm đầu chạy một mạch bất kể trờI đất, vừa chạy vừa niệm Phật vang trời. Vô được trong nhà rồI, tôi thở ào ào như trâu, tưởng chừng như mớI vượt qua thử thách gì ghê gớm lắm.
Sau này lớn lên, tôi phảI thật lòng cảm ơn cái xóm Chuồng Trâu cùng mấy con ma trong những câu chuyện phiếm của bà con. Nhờ sợ ma mà tôi tin Phật, tin vào đạo thuật - một niềm tin chắc chắn và dai dẳng không có gì lay chuyển được.
Tôi nhớ, có dạo bà dì của tôi đi núi mang về ba bức tượng Phật dùng để đeo. Tôi nằng nặc xin cho bằng được một bức rồI dùng chỉ đỏ xỏ qua đeo vào. Pho tượng nhỏ xíu bằng nhựa đem lạI cho tôi sự tự tin ghê gớm. Tôi đi ra đi vào con hẻm không phảI chạy ào ào nữa. Từng bước vững vàng, tay nắm chặt lấy tượng Phật, miệng không ngừng niệm Phật. Sau này, coi tuồng Na Tra đạI náo Thuỷ Cung, thấy mấy ông tiên cầm cây phất trần “Hô biến, Hô thâu”, thích quá tôi liền kiếm dây nilon tước ra cột vào đầu đũa làm thành cây phất trần mini làm pháp bảo hộ mạng. Từ đó, cây phất trần và bức tượng nhỏ trở thành vật bất ly thân của tôi, lúc đi học, đi bán, đi ngủ cho đến cả lúc đi… nhà xí (!). 

GẶP MA (?)
1- CHIẾC TÀU KÌ LẠ
Ở dướI quê thường có tục tống ôn tống quái. Năm nào trong vùng xảy ra dịch bệnh hoặc có nhiều hiện tượng bất thường xảy ra thì y như rằng năm đó có thầy pháp về chạy đàn làm lễ tống ôn tống quái. Đàn tống ôn thường tổ chức ở một khoảng đất rộng cạnh bờ sông. Thầy pháp cùng các đệ tử bố đàn, trấn tứ phương rồI bắt đầu gõ trống khua chiêng thỉnh âm binh thần tướng . Trong vùng cử ra mấy ông chức sắc lo chuyện thù tiếp lễ lộc cho mấy thầy làm phép. Sau khi cúng xong, “cái nào ăn thì ăn, cái nào cúng thì cúng”, đồ cúng riêng cho ôn thần được dọn hết để lên một chiếc tàu hoặc bè kết bằng bẹ chuốI. Thầy đi trước dẫn đường, bốn ngườI đàn ông khoẻ mạnh khiêng bè theo sau bà con nốI đuôi nhau tống tiễn ra đến tận bờ sông. Trên bè chuốI chất đầy đủ nhang đèn bánh trái, giấy vàng bạc, có cả con heo quay đỏ hoét, cờ xí cắt hình tam giác đủ màu sắc làm bằng giấy cắm um tùm xung quanh. Sau khi thắp tuần hương cuốI cùng, thầy cho bè hạ thuỷ. Theo con nước, chiếc bè chuốI cứ thế mà xuôi dòng cho đến khi tan rã.
Bà con ở quê thấy bè tống ôn họ sợ như thấy ôn dịch vậy. Bè tắp vào nớI nào, họ báo động cho nhau rồI chạy ra khấn khứa, lấy sào dài đẩy ra giữa dòng cho trôi đi tiếp.
Chỉ có mấy đứa chăn trâu là không biết sợ là gì.
Tôi nghe ngườI lớn kể lạI, mục đồng nào chăn trâu trên mườI hai năm, chẳng có ôn dịch nào dám vật cả. Thậm chí, bè chuốI đang trôi, chúng lấy tay ngoắc bảo vô là chiếc bè như có ngườI lái phảI tắp vào ngay. Sau khi lựa hết mấy món có thể nhấm nháp được, chúng lạI đẩy bè cho trôi tiếp. Không biết có phảI vậy không, nhưng rõ ràng trong thờI gian ở quê tôi thấy chỉ có ngườI lớn sợ ôn dịch thôi, chứ bọn chăn trâu thì … chỉ sợ cây roi vóc của ông chủ ruộng. Hôm nào thấy bè tống ôn trôi ngang là chúng mừng như mở hội. Lập tức trong nhóm có thằng lộI ra kéo bè vào. Thức ăn dành cho ôn binh thần tướng bị trẻ chăn trâu ăn mất cả. Và có đứa nào bị bịnh hoạn gì đâu, vẫn mạnh cùi cụi giống như mấy con trâu mà hằng ngày bọn chúng phảI chăn…

***
Một buổI chiều tháng Năm. Lúc đó tôi đã được mườI hai tuổi. Sau khi xay xong mớ bột cho ngoạI làm bánh, tôi lững thững lộI bộ ra bờ sông chơi. Từ nhà ngoạI, muốn ra sông phảI vượt qua một cái vườn mía và hai đám ruộng nhà ông Năm Giàu. Mặt trờI đang xế bóng, hắt lên mặt sông vô số tia sáng lấp loáng. Tôi lạI gốc bần ghẻ cạnh bờ sông ngồI ngắm cảnh. Cây bần chắc cũng bằng tuổI tôi, trên mình của nó đầy những vết sẹo ngang dọc, dấu tích của chiến tranh, làm vỏ cây sần sùi như bị ghẻ. MỗI lúc rảnh rỗI tôi thường có thói quen ngắm cảnh như thế. Không hiểu sao, mỗI lần ngồI bên một dòng sông trôi êm đềm, tôi thường cảm thấy rất dễ chịu. Có khi ngồI ba bốn tiếng mà vẫn không thấy chán. Lần này cũng thế, dựa lưng vào gốc bần, mắt ngó ra khoảng không gian lấp loáng nắng chiều, tôi nghêu ngao một vài câu vọng cổ học lóm từ ông Sáu đờn cò trước ngõ. “Nhị ca ơi, chén rượu đoan thề hơi men còn phảng phất đầu môi, trên bước hoạn đồ muôn nẻo ngược xuôi, anh mang chí cả mong đạp thành phá luỹ. Nhưng trờI không lựa lòng ngườI dũng sĩ nên giữa trận tiền anh mớI chịu sa cơ…” tiếng hát bập bõm câu được câu mất ngân nga dài bên dòng nước…
Mặt trờI đã khuất hẳn sau đám mây.
Những tia sáng bạc trên mặt sông biến mất. Chỉ còn lạI màu sáng dìu dịu của buổI hoàng hôn.
Tôi vẫn còn đang nghêu ngao thì… một chiếc tàu lớn bỗng từ từ chạy tới. Nó chạy êm như ru, không một tiếng động, mà hình như cũng chẳng tạo nên một gợn sóng nào.
Chiếc tàu làm tôi chú ý. Hình dáng của nó khá lạ, không giống những chiếc ghe hàng chở muốI hầm thường hay đậu ngoài Bến Cỏ. Thân tàu làm bằng gỗ sơn xanh đọt chuốI, mũi tàu bằng phẳng không nhọn đầu và có hai mắt như các tàu khác. Trên tàu, hai cột buồm giương cao vớI chục cánh buồm lớn nhỏ đầy màu sắc. Há hốc mồm vì kinh ngạc, tôi đứng dậy từ lúc nào không biết. Thấy trên tàu thấp thoáng bóng ngườI qua lại. Tiếng ồn ào la hét văng vẳng như xa như gần, hình như có cả tiếng dây xích khua vang…
Tôi đứng nhìn theo đến khi con tàu trôi đi thật xa…
Tiếng gọI của thằng Cu Tửng con cậu Năm vang lên đằng ruộng mía làm tôi giật mình:
- Anh Dũng ơi, dìa ăn cơm!
Bần thần trong giây lát, tôi lóc cóc đi về. Trong đầu vẫn ngơ ngẩn về hình ảnh con tàu kì dị ấy. Trong bữa cơm, tôi kể lạI cho mọI ngườI những điều mớI thấy. Chẳng có ai tin tôi cả. Mợ Năm cườI tủm tỉm nói:
- Ở đoạn sông này, chỉ có ghe chở muốI vớI mấy chiếc đò ngang qua Bình Dương thôi, làm gì có chiếc tàu kì cục như vậy.
- Thiệt mà mợ - Tôi chống chế - con thấy rõ ràng mà, chiếc tàu bự lắm, mấy ngườI trên đó mặc đồ giống như hát bộI vậy…
Mợ tôi phì cườI:
- Ừ, lúc nào thấy nữa nhớ kêu tao ra coi nhe. Để họ hát mà không ai coi cũng uổng.
Mấy thằng em tôi thừa dịp đó cũng xúm vào chọc ghẹo nói cười ầm ĩ. NgoạI phảI gõ đũa bếp xuống bàn tụI nó mớI chịu im.
Sau bữa cơm, ngoạI chỉ nói vớI tôi một câu gọn lỏn:
- Lần sau, con nhớ đừng có ra sông một mình nữa.

Khi viết những dòng chữ này, trong đầu tôi vẫn hiện rõ mồn một hình ảnh của con tàu xanh kì dị đó. PhảI chăng tôi bị ảo giác, bị gặp ma? Hay đó là những linh ảnh trong quá khứ? NgoạI tôi có biết điều gì không mà dặn tôi như vậy? … câu trả lờI này xin dành lạI cho các bạn đang đọc câu chuyện của tôi. 

2 – VẦNG SÁNG TRONG ĐÊM:

Từ năm lên hai tuổI, khi má sinh đứa em kế thì tôi đã được cho ngủ riêng. Bà nộI thương tình đưa qua ngủ chung vớI nộI để có hơi ngườI, tôi dễ ngủ hơn. Ngặt một điều nết ngủ của tôi không giống ai. Đầu hôm nằm ở góc giường này, nửa đêm đã sang qua góc giường khác rồi. Có khi lăn dữ quá, tôi té bịch xuống đất, giật mình tỉnh dậy rồI lồm cồm ôm gốI bò lên giường… ngủ tiếp ( sau này, nết ngủ đứa con gái đầu của tôi cũng giống y như thế. Thiệt đúng là “cha nào, con nấy”).
NộI tôi chịu đựng hết xiết nên thường sau khi tôi ngủ say, bà rón rén dọn …giường qua chỗ khác. Đôi khi nửa đêm thức dậy, sờ xung quanh trống trơn, tôi sợ muốn phát khóc. Nhưng rồi nhìn không gian tốI đen như mực, tôi quíu quá lăn sát vào vách tường, trùm mền lạI mà ngủ. Cứ như thế cho đến năm tôi mườI hai tuổi…
Lần ấy tôi từ Củ Chi trở về sau một tháng “tị nạn” ở nhà ngoại.
Lúc mớI về không ai nhận ra tôi cả. Tôi tròn như hột mít và đen như con cá trê. NộI tôi khen: “ Cái thằng này mà nuôi đàng hoàng, nó còn mau lớn nữa!”
Đêm đầu tiên về nhà, làm như lạ hơi nên khó ngủ. HồI ở ngoạI, mấy anh em thường nằm lăn lóc trên bộ ván ngựa nhà trước, ở quê gió lộng tứ bề mát rượI nên dễ ngủ. Bây giờ trở về nhà, mọI thứ chật chội, tôi có cảm giác không thoảI mái cho lắm.
Trằn trọc mãi rồI tôi cũng thiếp đi…

***
… Tôi thấy mình đang đi trên một con đường dài thăm thẳm, tre mọc ngút ngàn hai bên tạo thành một khung cảnh âm u đáng sợ. Tôi còn đang ngơ ngác thì một thằng bé gầy nhom cao khẳng khiu từ đâu chạy tớI, vừa chạy nó vừa thở hồng hộc:
- Chạy… chạy… lẹ đi! Ma đó…
Câu nói chưa trọn vẹn thì nó đã vọt qua tôi.
Chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, tôi đã cảm thấy hai chân nặng như đeo đá, lòng bàn tay bàn chân lạnh ngắt. Một cảm giác ngột ngạt khó thở tràn ngập xung quanh. Tôi tưởng chừng như không khí quanh mình đang sệt lạI dần, hả miệng thật to để thở mà dường như chẳng có chút oxy nào lọt vào. Cả ngườI dần dần cứng đờ, tôi không thể nhìn lạI phía sau nhưng vẫn cảm giác có một cái gì đó thật đáng sợ đang đến gần và chuẩn bị áp sát vào tôi. Hai tai tôi ù đặc những tiếng ve. Ngột ngạt quá. Tôi muốn la lên mà sao miệng cứ ngáp ngáp không phát ra được một âm thanh nào cả. Tôi bỏ chạy… nhưng dường như động tác của tôi giống vớI ngườI biểu diễn kịch câm hơn. Chậm chạp, nặng nề và … dẫm chân tạI chỗ. Cả ngườI tôi như đang lún dần, lún dần vào đầm lầy vớI những đám bùn đặc sệt. Tôi ngộp thở quá! Tay chân cử động hết nổI rồI. Tôi chìm, chìm dần… không còn sức lực vùng vẫy nữa …
Ngay trong lúc ấy, trong tai tôi bỗng vang lên tiếng thét như sấm : “NIỆM PHẬT...” tiếng thét làm tôi tỉnh người. Như ngườI chết đuốI vớ được mảnh ván thuyền, tôi bắt đầu niệm “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật…” Nói là niệm vậy thôi chứ thật ra mọI thứ chỉ điễn ra trong óc. Tiếng niệm Phật lúc đầu rờI rạc, tán loạn, càng về sau càng liền lạc hơn và rõ ràng hơn. Tôi thấy rất rõ không khí xung quanh tôi loãng dần, ngực nhẹ lại. Vừa niệm tôi vừa thở lấy thở để như kẻ sắp chết chìm được lôi đầu lên khỏI mặt nước. Mừng rỡ, tôi niệm to lên. Và… trờI đất ơi, tôi niệm thành tiếng được rồi. Tôi nghe rõ mồn một từng câu niệm của mình cảm giác như tiếng niệm Phật đang phá vỡ bầu không gian ma quái đang bao trùm quanh tôi.
Vèo một cái, mọI thứ bỗng trở lạI bình thường. Tay chân nhẹ tâng, hơi thở điều hoà. Cái cảm giác lạnh lẽo vào tiếng ve trong đầu tôi biến mất. Mừng rỡ, tôi co giò chạy một mạch về phía trước, tre hai bên đường vùn vụt lao ngược lạI đàng sau…
Chạy mãi, chạy mãi… trước mắt tôi chợt sáng rỡ. Không còn con đường hun hút bóng tre, mở ra trước mắt tôi là bầu không gian bao la. Con đường tôi đang chạy dẫn đấn một bến đò. Trên đò đã có một số ngườI ngồI. Cạnh chiếc đò, một ông già mặc chiếc áo nâu, độI nón lá đang cầm cây sào dài như đang chuẩn bị qua sông. Thấy tôi, ông khẽ mỉm cườI, chòm râu dài bạc trắng. Tôi chạy vộI đến và …hụt chân té sấp…

***
Giật mình tỉnh dậy, tim tôi đập thình thịch, mồ hôi ướt đẫm chiếc chiếu đang nằm. Xung quanh tốI đen như mực. Đầu óc vẫn còn bàng hoàng về giấc mơ quái đản
Trong lúc còn chưa tỉnh hồn, một cảm giác kì lạ chợt dâng lên trong lòng tôi. Không phảI là cảm giác lúc đang mơ, nhưng tôi không lý giảI được. Bất giác, đưa mắt nhìn ra ngoài, tôi chợt nhìn thấy… một quầng sáng màu vàng cam hình o-van, cao bằng đầu ngườI đang đứng yên bất động ở ngay cạnh giường. Ánh sáng không rực rỡ lắm, nó nhàn nhạt như màu lửa và mờ mờ ảo ảo. Bàng hoàng, tôi lăn sát vào cạnh giường trong, lưng áp vào tường và lấy mền trùm đầu kín mít. Nhịp tim vừa mớI ổn định bây giờ lạI thúc liên hồI như trống giục. Cảm giác sợ lạI ập đến, tôi nhắm tít hai mắt lạI đến loé đom đóm…
Một lúc sau, len lén hé mền ra nhìn… tôi vẫn thấy vầng sáng ở đó không di chuyển. Lần này thì sợ thiệt rồI! Tôi quay mặt úp vào trong vách, co quắp ngườI lạI, phủ mền kín đầu và niệm bất kì câu niệm nào mà tôi nhớ ra lúc đó. Niệm mãi, niệm mãi đến khi mệt mỏI tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Năm giờ sáng, đúng theo lệ, nộI đánh thức tôi dậy cột bánh. Mở mắt ra, việc đầu tiên là tôi quan sát mọI thứ xung quanh. Vẫn bình thường, vầng sáng lạ không biết đã biến từ lúc nào…

***
Câu chuyện này tôi giữ kín cho đến khi nhập đạo. Các bạn có biết việc gì xảy ra trong ngày đầu tiên tôi bái sư không? Lúc sư phụ tôi giớI thiệu sư huynh, tôi “ớ” lên một tiếng thật lớn làm mọI ngườI giật mình. Vì sao ư, vì sư huynh của tôi …chính là cái thằng nhỏ còm nhom mà tôi nhìn thấy trong mơ hơn năm năm về trước…
Còn cái vầng sáng lạ lùng là gì? Nghe tôi kể lạI, sư huynh nói rằng đó không phảI là ma đâu. Có thể là một vị thiện thần nào đó có duyên vớI tôi mà thôi… 

ĐẾN VỚI ĐẠO

Nhà tôi ở vùng ven thành phố. Khu vực này nhà cửa thưa thớt, cây cối um tùm, đi hai ba cây số mới đến được chợ. Cả một vùng rộng lớn như thế chỉ có hai ngôi chùa cổ: Mai Sơn và Vạn Phước. Chùa Mai Sơn thì gần nhà tôi hơn. Nhưng chùa Vạn Phước lại gần nhà bà dì tôi, vả lại bà là Phật tử của chùa nên thường kêu nội tôi đi chùa này. Vậy là “chùa gần không lấy, lấy chùa xa”, mỗi dịp rằm lễ nội tôi lại đưa cả nhà đi chùa Vạn Phước, sẵn dịp thăm bà dì tôi luôn thể.
Nhà bà dì ở ngay sau lưng chùa cách nhau một hàng tre mỏng. Chỉ cần vét mấy cành gai tre chui qua là tới sân sau của chùa. Lúc mọi người đang cụ bị qua dự cúng Ngọ, tôi có đề nghị băng qua hàng tre. Nhưng bà dì tôi nói: “Đi chùa phải đường đường chính chính mà vào cổng lớn, có phải chó chuột gì đâu mà phải chui gốc tre chứ!”. Tôi thì tôi nghĩ khác, để vào cổng lớn cả nhà phải đi một vòng hết con hẻm, ra đến đường cái rồi mới đi theo đường bờ đi vào. Còn ở đây, chỉ vài bước đã đến chùa, tại sao lại phải thế, đàng nào cũng đến chùa kia mà.
Nghĩ là làm. Đợi mọi người ra cửa, tôi giả vờ ra nhà sau vệ sinh và … alê hấp, tôi vẹt gai tre chui qua cái vèo. Lúc chui ngang, tôi quá vội vã để gai tre cào sướt cánh tay. Nhưng không sao, chuyện nhỏ. Ở trong xóm tôi thường bị đám con ông Hai Cẩu đánh còn đau hơn nhiều. Cái mà tôi sướng nhất là trong khi cả nhà còn lâu mới tới, tôi chạy lại gốc cây bồ đề cổ thụ ngồi hóng gió… bóng cây thật lớn bao trùm cả khoảng sân sau mà một phần mái chùa. Lá cây đón gió reo lên như những trận mưa rào rào đến là thích.
Chui được một lần, thế là tôi theo thói quen chui tiếp.Riết rồi hàng tre chỗ tôi qua lại trống hẳn một khoảnh an toàn không còn gai góc nữa. Về sau, cả nhà tôi (luôn bà dì ) cũng bắt chước đi qua hàng tre cho tiện. Tôi sướng quá, lỗ mũi cứ phổng lên…
Lúc ấy tôi mới 9 tuổi. Chuyện đi chùa đối với tôi chẳng khác gì đi Sở Thú. Ngồi dưới cội bồ đề hay ngồi dưới bóng cổ thụ trong Sở Thú tôi vẫn thấy thích thú như nhau. Tôi chịu đi chùa vì ở chùa nấu nhiều món chay rất ngon, đặc biệt là món kiểm, món canh hỗn hợp gồm bí rợ, khoai lang, mướp, bột khoai, đậu phộng… nấu với nước cốt dừa. Tôi mê cái vị béo của nước cốt dừa với vị bùi bùi của hột đậu phộng đến nổi …ăn liên tục 2 chén vẫn còn thèm. Xin thêm chén thứ ba được hai muỗng là bụng căng cứng như mặt trống chầu. Len lén nhìn quanh không ai để ý, tôi bỏ xuống bộ ván rộng và chạy ra ngoài. Một sư cô làm công quả thấy vậy la lên: “Ăn bỏ mứa như vầy mai mốt xuống địa ngục ăn giòi”. Câu nói ấy ám ảnh tôi suốt một thời gian dài, đến nổi sau này ăn cơm, một hột rơi xuống bàn tôi cũng lượm lên mà nuốt sạch…
Ngày ấy, tôi đi chùa chỉ để lạy Phật và ăn đồ chay. Sau này, được dẫn dắt đến chùa Mai Sơn, tôi mới bắt đầu tụng kinh niệm Phật.
Sau vụ nằm mơ thấy ác mộng khoảng một tháng, tình cờ tôi ghé nhà ông Ba Hem chơi. Nhà ông ở ngay đầu xóm, sát hàng tre. Nói nhà cho oai chứ chỉ là một căn chòi ọp ẹp lợp tôn. Nhìn trông giống cái kho chứa đồ hơn. Bà con trong xóm ai cũng nể ông Ba nhưng không ai dám gần gũi tiếp xúc với ông. Nghe con Hạnh nhà đối diện tôi nói, má nó bảo gặp ông nhiều xui xẻo hết biết luôn. Ngày nào nói chuyện với ông là trong vòng ba ngày thế nào má nó cũng bị bắt quả tang đang bán xăng lậu, bị tịch thu sạch láng. Nó còn kể, chú Hai Heo nhà tuốt trong xóm trong nhờ ông Ba lại sửa cái cầu tiêu. Một tuần sau, chú Hai và sòng tài xỉu do chú làm xâu bị cảnh sát ập vô bắt gọn, chú vô nằm khám hết ba ngày…
Tôi thì không sợ chuyện đó. Ông Ba rất hiền, đối với ai ông cũng nhỏ nhẹ, ai nhờ cái gì ông cũng giúp mà không hề than phiền hoặc vòi vĩnh tiền công. Đặc biệt, ông rất quý tôi. Tôi cũng quý ông nữa. Tình bạn vong niên giữa một ông già sáu mươi và đứa nhỏ mười hai hình thành tự lúc nào không rõ…
… Lúc tôi ghé vào thì ông Ba đang ngồi trước chòi đọc một quyển sách. Tôi là một con mọt sách, gặp sách truyện thì y như rằng tôi quên hết đường về. Tôi tò vè lại hỏi:
- Ông Ba đọc truyện gì vậy?
Không trả lời, ông chậm rãi lật bìa sách lên cho tôi xem. Quyển sách đã cũ, chữ ngoài bìa cũng mờ, tôi lẩm bẩm đọc : “ kinh Bát đại nhơn giác”.
- Cuốn này hay hôn vậy ông Ba?
- Cuốn này coi không được đâu – Ông Ba chậm rãi trả lời.
- Sao ông coi được mà con không coi được?
- Tại cuốn này cháu coi hổng có hiểu. Để ông đưa cuốn khác cho.
Vừa nói ông vừa đứng dậy bước vào nhà. Tôi thấy ông lúi húi giở mấy quyển sách lên và chọn ra một quyển…
Đó cũng là quyển sách đầu tiên về đạo Phật mà tôi được đọc - “Sự tích đức Phật Cồ Đàm”

Dần dần, “thư viện” nhà ông Ba được tôi viếng thăm hằng ngày. Cứ mỗi buổi đi học về, vớt bánh xong là tôi chạy lại căn chòi của ông Ba, lựa một quyển ưng ý và tót ra bụi tre ngồi đọc say sưa… Những quyển sách ấy dẫn tôi vào đạo. Còn ông Ba thì … dẫn tôi vào chùa. Rằm tháng bảy năm đó, tôi chính thức đi chùa và … tụng kinh. Ngay đêm đầu, tôi tụng lưu loát theo mọi người phẩm “Hoá thành dụ” trong Diệu Pháp Liên hoa kinh. Các sư cô khen tôi có duyên với Phật…
Tôi đi chùa hằng đêm, các bài kinh ngắn như Di Đà, Phổ Môn tôi gần như nằm lòng. Cứ tưởng cuộc đời tôi êm đềm với chuông mõ, không ngờ, một sự kiện xảy ra làm tôi rẽ sang một lối khác…
Một đêm nọ, sau khi tụng kinh ở chùa về. 
Tôi thả bộ về nhà trên con đường lồi lõm những đá, miệng cứ nghêu ngao mấy câu thơ trong bài Sám hồng trần. Bất chợt, tôi nhìn thấy ở căn nhà nho nhỏ khuất sau một hàng cây có vô số người tụ tập. Tính tò mò của trẻ con trỗi dậy, chẳng chút đắn đo tôi rảo cảng chạy ngay đến chỗ đông người ấy. 
Mới đến sân nhà, tôi đã nghe tiếng la hét hự hẹ vang rân, xen lẫn tiếng khóc la rên rỉ. Vốn nhỏ con, tôi nhanh chóng luồn qua khỏi đám đông chen vào đến ngay cửa sổ nhìn vào. 
Ở bên trong là một gian phòng nhỏ, phía trên có một kệ thờ bằng tấm ván gác ngang, trên kệ thờ có một khuôn hình màu đỏ bên trong có tấm vải vàng vẽ bùa phép ngoằn ngoèo. Ấn tượng của tôi về bảng bùa đó là hai con rắn bự chảng uốn quanh co thành hình dáng chữ bùa, đâu rắn ngoẹo sang hai bên trông phát ớn. 
Trước bàn thờ là một người đàn bà trạc năm mươi dáng người to béo đang ngồi xếp bằng. Tiếng la khóc vẳng ra chính là từ người đàn bà này. Cứ nghe tiếng gào của bà ta như là heo bị chọc tiết. Hai vai bà ta có hai thanh niên nắm giữ. Đứng trước mặt bà là người đàn ông to lớn, đầu trọc trạc khoảng bốn lăm bốn sáu gì đó. Trông mặt ông ta thật ngầu, mắt trợn tròn, tay cầm chiếc roi bện bằng rơm và tóc người trông gớm ghiếc. 
Lúc tôi vừa chen vào cũng là lúc ông ta vút roi xuống đất cạnh người phụ nữ chan chát. Kỳ lạ ở chỗ, mỗi lần roi chạm đất là người phụ nữ lại la lên thảm thiết như vừa bị tra tấn. Tiếng la của bà làm tôi thót tim. Bất giác tôi đưa tay lên nắm lấy xâu chuỗi bồ đề đang đeo trong cổ áo. 
Lúc ấy, ông thầy (tôi đoán thế) quát lớn: 
- Mày chịu xuất ra chưa? 
- Dạ chịu… hư..hư… - Người đàn bà vừa khóc vừa trả lời. 
- Chịu mà sau mày cứ ở trong xác hoài vậy hả? 
- Dạ… hư..hư…thầy cho con thời gian. 
- Cho thời gian để mày hốt hồn người ta hả? Bây giờ đi không? 
- Dạ… hư..hư… 
- Mày cứng đầu quá! Chết nè… chết nè… 
Nói câu nào, ông thầy vút từng nhát roi vào đất trước mặt người phụ nữ. Thân thể bà ta nảy lên từng cái sau mỗi nhịp roi. 
- Tha cho con thầy ơi! 
- Tha cho mày rồI mày có tha cho cái xác này không? 
- Hư…hư… 
- Hư hư nè… tha nè… - ông thầy vụt roi tớI tấp. Con bệnh lại rú lên từng hồI ngắt quãng. 
Quất gió một hồI, coi bộ thấm mệt, thầy quay sang anh thanh niên đang ghì vai trái của người bệnh: 
- Long, thỉnh tổ. 
Anh thanh niên vội bước đến trước bàn thờ chắp hai tay lên trán. Thầy quơ nắm nhang cháy nghi ngút trên bàn vẽ liên tục mấy vòng lên lưng anh ta miệng lâm râm đọc chú, đột ngột thầy thét lớn: “ Lai tốc giáng”. 
Tiếng thét của thầy có ma lực lạ lùng. Anh thanh niên tên Long run lên bần bật, thân thể chuyển động quay cuồng, xương cốt anh ta kêu răng rắc tưởng chừng như đang gãy vụn trước một sức mạnh kinh hồn nào đó. Cơ thể anh chuyển động nhanh dần trong khi miệng thở phì phò như trâu thở. Lúc này ông thầy đứng ngoài cũng đang bắt ấn miệng đọc lâm râm, bất ngờ ông lạI thét lên một tiếng nữa làm tôi giật bắn mình: “ Chuyển!”. Anh thanh niên cũng thét lên một tiếng rồI vung quyền ầm ầm như vũ bão. Tay anh ta đập vào thân thể nghe chan chát, lúc anh ta quay lạI, tôi thấy đôi mắt anh nhắm nghiền. Vậy mà động tác di chuyển ra đòn thật đáng sợ. Tôi nghĩ, chắc là vị thần nào đang nhập xác anh ta rồi. Bất giác, tim tôi đập thình thịch, tay chân cũng quíu lại có cảm tưởng như mình cũng đang bị nhập… Lúc bấy giờ anh thanh niên còn lại cũng đã buông tay lùi sát vách, để con bệnh ngồi chơ vơ trước bàn thờ…. 
Đòn thế đánh mỗI lúc một nhanh, tiếng đập chan chát mỗI lúc mỗi lớn, nghe mà lạnh xương sống. Con tà trong thể xác người phụ nữ co rúm lại rên rỉ thảm não. 
Năm phút trôi qua mà tôi có cảm giác như lâu lắm. Anh Long chợt thu hồi quyền cước, quay lại bàn thờ lấy mấy miếng trầu têm sẵn bỏ vào miệng nhai rau ráu. Trong khi ai nấy còn chưa hiểu việc gì, anh ta ngồi thụp xuống trước người bệnh. Lúc này anh ta quay mặt ra cửa nên tôi nhìn thấy mồn một từng chi tiết trên mặt anh ta. Một khuôn mặt thật đáng sợ, hai mắt gần như lồi ra trắng dã không thấy tròng đen, mặt xanh lè như tàu lá chuốI, trong ánh sáng nhợt nhạt của bóng đèn néon lại càng khủng khiếp hơn. 
Thế rồi. hai tay anh ta chụp lấy vai con tà đẩy ngửa ra, chu miệng phun một cái phèo, cả ngườI con tà dính đầy xác trầu và vôi nhai nát. 
Con tà hét lên một tiếng rồi gục xuống. 
Anh thanh niên cũng gục theo. Ông thầy lập tức hô lớn: 
- Hổ, mày đỡ thằng Long ngồi dậy. 
Nói xong ông lấy chai rượu trắng trên bàn trút vào miệng, quay sang phun cái xoà vào ngườI anh thanh niên tên Long. Anh ta cựa mình tỉnh dậy ngơ ngác nhìn thầy. 
- Đưa nó vô trong - Thầy ra lệnh. 
Mệnh lệnh lập tức được thi hành. Cái xác ngườI phụ nữ vẫn nằm im không nhúc nhích. Một tiếng nào đó vang lên từ đám đông: 
- Chắc là con ma nó xuất ra rồI! 
- Xuất hay không thử rồi biết liền chớ gì! 
Trả lời xong, với tay cầm nắm nhang nghi ngút khói để trên bàn, thầy vẽ những hình thù kì dị nào đó lên lưng ngườI phụ nữ . Vẽ xong, thầy đưa tất cả đầu nhang cháy đỏ vào trong miệng nhai trệu trạo. Mọi người xuýt xoa, tôi cũng hết hồn. Chữa bệnh kiểu này dễ bị lột lưỡi chứ không phải chơi. Trong khi tôi còn đang nghĩ ngợi lan man thì ông thầy đã phun thẳng đống hỗn hợp bột nhang, than tro lẫn… nước miếng của thầy vào cái xác đang nằm bất động. 
Thật kinh khủng. Cái xác im lìm như chết ấy nảy ngược lên rồI giẫy tê tê như điện giật. Miệng gào thét “Ôi, nóng quá, nóng quá!” 
Ông thầy ngồI xuống theo tư thế chân chống chân quỳ, tay trái thộp lấy cổ con tà, tay phảI co ngón giữa lạI thành ấn và lôi một cái. Thân xác to béo của ngườI phụ nữ bật phắt dậy như cái máy. Trong thể xác ngườI đàn bà, con tà cố gắng giãy giụa. Nhưng lúc ấy cánh tay ông thầy như cái kềm sắt nắm cứng lấy cổ của nó không buông. Trong giây lát, cái xác lạI rủ xuống mềm nhũn, miệng vẫn còn lảm nhảm:
- Đồ độc ác, làm thầy mà không có đức, chỉ biết đánh đập, không phục hư…hư…, không phục…hư…hư…
- MÀY KHÔNG PHỤC THÂY KỆ MÀY. BÂY GIỜ TAO HỎI, CÓ CHỊU XUẤT RA KHÔNG? – Ông thầy hét lên dữ dộI, tôi lạI giật bắn người.
Con tà im lặng không trả lờI, đầu nó cúi rũ xuống như chiếc lá héo.
- Được, mày muốn đau khổ, tao cho mày đau khổ.
Nói xong thầy đứng dậy bước đến bàn thờ lấy mấy tờ giấy vàng xếp lại. Trong chốc lát, bằng vài nhát kéo, tờ giấy đã biến thành những hình nhân đứng giang tay. VớI tay cầm cây bút, thầy nghuệch ngoạc những vòng xoắn, nút thắt gì đó trên trán, bụng và tay chân của hình nhân.
Lúc này, do quá hiếu kì, tôi đã rờI khỏI cửa sổ và bước vào trong cửa phòng từ lúc nào. Thật ra, trước đó ông thầy có đuổI mấy lần nhưng hầu như chẳng ai chịu đi cả. MọI ngườI cứ lùi ra một chút rồI lạI lấn vào. Còn tôi, ỷ mình có xâu chuỗI bồ đề, tôi tự tin vào luôn trong phòng.
Viết xong mấy chữ bùa, thầy cầm nhang khoán vào, vừa khoán vừa đọc lầm thầm những câu gì không nghe rõ. Khoán bùa xong, ngó lên thấy tôi đang đứng xớ rớ gần đó, thầy nổI giận điểm mặt tôi quát lớn, e rằng thầy quát tôi còn lớn hơn quát con tà hồI nãy:
- THẰNG NHỎ KIA, ĐI RA CHƯA?
Không đợI phản ứng của tôi, thầy hùng hổ bước lại. Hoảng quá, tôi quay ra cửa định chuồn. Nhưng… muộn mất rồi. Ông thầy bước hai bước đã đến chỗ tôi, và… một cái đá đít như trờI giáng làm tôi muốn chúi nhũi vào đám đông bên ngoài. Vậy là tôi đành ngậm ngùi …quay lạI cửa sổ coi tiếp.
Lập xong chiến công… đá đít, thầy quay lạI tiếp tục xử con tà. Những hình nhân giấy có vẽ bùa ấy được đốt thành tro, bỏ vào ly nước. Ông thầy bưng đến chỗ con tà bắt nó phảI uống. Nhìn ly nước đen thui đặc khềnh những xác giấy đốt, tôi cảm thấy lo sợ thay cho con tà ấy. Uống hết ly đó chắc nó chết quá!
Chắc con tà cũng nghĩ như tôi nên nó mím miệng cúi đầu không uống. Thầy tức mình kêu lớn:
- Hổ!
Anh thanh niên dìu bạn lúc nãy chạy đến hỗ trợ thầy giữ chặt hai vai ngườI bệnh, còn ông thầy một tay bóp miệng tay kia tọng thẳng ly nước đen thui những giấy vừa đốt vào cái mồm đang há to ấy. Con tà giãy giụa, ho sặc sụa, phun phèo phèo những tàn tro xác giấy còn vướng trong miệng ra. Vừa phun nó vừa gào lên:
- Độc ác, độc ác!
Chưa nói hết câu, thể xác của nó ngã vật ra sau, oằn oạI như con rắn bị đánh dập đầu. Tiếp theo, nó lăn lộn cấu xé thân thể, rồI đập bình bịch vào người. Tưởng chừng như trong cơ thể nó đang có ông Tề Thiên nào đó quậy phá. Miệng con tà lảm nhảm:
- Tha cho con thầy ơi! Tha cho con thầy ơi!…
Trong lúc con tà đang oằn oạI, ông thầy lạI bàn thờ thắp thêm nhang mới. Đoạn, ông cầm cây roi bện rơm và tóc lên, uốn cong lạI thành hình dáng chữ bùa…
Còn đang hồI hộp chờ đợI sự việc tiếp theo thì… lỗ tai tôi bị béo một cái đau điếng. Tức mình, tôi quay sang định chửI thì thấy khuôn mặt tức giận của… má tôi. Thì ra mê coi chữa tà mà tôi quên cả giờ giấc. Hơn mườI giờ tốI thấy tôi chưa về, má tôi hốt hoảng chạy lên chùa tìm kiếm. Nghe các sư cô nói vãn kinh đã lâu rồI, má lạI càng lo lắng. ThờI may, trong lúc đi tìm, nhìn thấy có đám đông, má định vào hỏi thăm và… thấy tôi đang say sưa ôm dính cửa sổ coi thầy làm phép… TốI hôm đó, tôi bị một trận đòn quắn đít. 
Từ dạo đó, tôi bắt đầu chú ý nhiều đến huyền thuật, thần thông. Kho sách nhà ông Ba bị tôi bới tung cả lên. Tìm được những câu chuyện nào trong kinh có liên quan đến thần thông là tôi vồ lấy đọc say sưa, đọc nghiến ngấu. TrờI ơi, đức Phật Tổ thần thông vô lượng luôn! Chỉ bước đi chậm rãi mà Vô Não khoẻ mạnh kia chạy theo hoài không bắt kịp, Phật hiển thị thần thông cùng 2500 vị alahán bay qua sông, rồi Phật hàng phục voi dữ, thắng cả Lục sư ngoại đạo nữa. Bồ tát Mục Kiền Liên chỉ là đệ tử của Phật thôi mà thần thông cũng ghê gớm vô cùng. Ngài hàng phục được rồng thần, vào địa ngục tìm mẹ, lại còn dùng thần thông bay đi tìm thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà nữa… 
Tôi rất thích đọc kinh Pháp Hoa, đặc biệt là phẩm Đà La ni. Những câu chú bằng tiếng Phạn đối với tôi là cả một thế giới kì bí cần phải khám phá. Để có thể đọc nhiều lần, tôi năn nỉ ông Ba Hem mượn hẳn cho tôi quyển kinh đem về nhà. Dĩ nhiên điều này làm cho ông Ba rất vui lòng. Có quyển kinh trong tay, tôi có cảm giác mình đang sở hữu cả một thế giới ma thuật đầy bí ẩn. Tôi tụng đọc các bài thần chú cúng dường của các vị Thiên vương, La sát … một cách say sưa. Miệng tôi lúc nào cũng ê a những âm thanh kì bí không ai hiểu cả, và tôi rất lấy làm thú vị vì điều đó. 
Những lúc rảnh, tôi tẩn mẩn vẽ hình, cắt giấy làm thành các hình nhân giống như ông thầy bùa chữa tà từng cắt. Tôi cũng cắm cúi vẽ những khoanh tròn, những dấu móc vào trong miếng hình nhân giấy ấy giống như ông ta từng vẽ. Dĩ nhiên là theo trí nhớ mang máng của tôi. Thậm chí những lúc quá cao hứng, tôi còn cắt ngón tay lấy máu in vào trán hình nhân. Tôi cũng không giải thích được vì sao mình lại làm như vậy. Bởi vì chi tiết này không hề có trong buổi chữa tà trước đây, cũng chưa bao giờ tôi thấy ở đâu cả. Sau này, khi đã lớn và hiểu biết nhiều, tôi mớI nhận ra rằng tất cả những gì tôi làm lúc ấy đều có liên quan đến tiền kiếp của mình. Chắc chắn rằng, trong một thời quá khứ nào đó, tôi đã từng làm thầy hoặc đã từng trải qua cuộc sống trong thế giới huyền môn. 
Mà nào chi có mình tôi. Sư huynh của tôi cũng vậy, từ năm lên chín, mỗi khi căm tức ai đó, ông ta thường tìm đất sét nắn thành hình tượng vớI đủ đầu mình tay chân, sau đó rình kiếm cho bằng được tóc của người mà mình ghét cắm vào trong cục đất và đem lên nóc nhà phơi nắng. Có ai chỉ bảo ông ta đâu? Từ trong vô thức, có một cái gì đó mách bảo mình làm như thế. 
Thông thường, sau khi vẽ rồng vẽ rắn ngoằn ngoèo trên miếng giấy, tôi đem chúng ra ngoài sau đốt bỏ vì sợ nội tôi thấy. Nhưng, một bữa nọ, sau khi đóng dấu son bằng cách chấm một giọt máu vào trán hình nhân, tôi định đem ra đốt như mọi khi thì trời đổ mưa ào ào. Sực nhớ đống quần áo đang phơi ngoài sân, tôi chỉ kịp bỏ hình nhân vào hộc tủ và chạy vội ra lấy đồ... 
Đó là hình nhân duy nhất còn sót lại sau khi tôi vẽ. 
Chính nó đã mở đầu cho hàng loạt những sự kiện kì bí xảy ra trong nhà và cũng là nhịp cầu đưa tôi đến vớI thế giới huyền môn. Bốn giờ sáng hôm đó, như thường lệ bà nội tôi thức dậy chuẩn bị gói bánh tét. Vừa mới loay hoay bày trạt lá chuối đã xếp sẵn chiều hôm qua, nội chợt thoáng thấy bóng một đứa nhỏ chạy vụt ngang và biến mất ở gian giữa. Giật mình khẽ dụi mắt, nội tôi tự nhủ thầm “Chắc là lớn tuổi rồi hoa mắt”, và bà bỏ qua không quan tâm để ý.
Nhưng rồi đến lượt cô tôi cũng thấy thì sự việc không còn bình thường. Lúc cô tôi ra sàn nước để gút nếp trộn đậu đen, một bóng đen từ nhà giữa lại xẹt qua ngang mặt, thoắt cái nó lại biến mất. Sự việc tái đi tái lại hai ba lần đến mức cô phải thất thanh la hoảng. Má và nội tôi chạy vội ra xem thì không thấy ai, cẩn thận mở đèn kiểm tra thì mấy anh em tôi vẫn còn trùm mền ngủ kỹ. Bà nội lo lắm nhưng không dám nói ra.
Ngay hôm đó, bà đi chợ mua dĩa tam xên và bông trái về bày biện cúng lễ. Mấy anh em tôi vẫn cứ vô tư chẳng biết chuyện gì, chỉ cảm thấy vui mừng vì bữa cơm trưa hôm đó có được món thịt thay cho nồi nước mắm kho quẹt thường ngày…
Sự việc trở nên trầm trọng hơn khi đến má tôi cũng nhìn thấy. Trong lúc bưng thau đậu xanh tán nhuyễn từ bếp vào để vò làm nhân bánh tét, má tôi thấy một bóng đen nhỏ người đang leo lên tuột xuống ở cây cột cái nhà giữa. Tưởng hoa mắt, má đứng sững người xem kỹ. Bóng đen vẫn cứ tuột xuống leo lên như ở chỗ không người. Bỏ thau đậu xanh xuống ghế, má bước nhanh lại, bóng đen lập tức biến mất không để lộ chút tông tích nào…
Buổi sáng, anh em em tụi tôi ngồi cột bánh, nhìn thấy người lớn trong nhà ai nấy đăm chiêu. Không khí có vẻ nặng nề đến nổi không đứa nào dám đòi nội kể chuyện như mọi bữa. Tôi nghe má tôi hỏi nội:
- Giờ tính sao má?
- Thì rước thầy chứ sao? - Nội tôi trả lời dấm dẳng.

Ba hôm sau, đi học về đến nơi, tôi thấy nhà tôi đông như đám giỗ. Có điều ai nấy mặc áo vàng áo lam dài lụng thụng. Bà nội tôi thỉnh các sư cô ở chùa Vạn Phước xuống gần chục vị, cộng thêm cả chục Phật tử đi theo hộ niệm. Bà dì tôi đang lăng xăng chỉ bảo má và cô tôi bày biện. Giữa nhà treo bức hình Quan Âm to bằng nửa bức sơn thuỷ trên bàn thờ. Nhang đèn bông trái đã bày biện đâu vào đó tinh tươm. Khoảng mười phút sau các sư cô và Phật tử đứng hai bên bàn thờ Phật và bắt đầu vào thời kinh Phổ Môn. Nội và cả nhà quỳ phía trước bàn thờ. Nhìn cái cảnh tụng kinh này, tự nhiên tôi nhớ đến ngày bà cố tôi mất. Cũng sư tăng Phật tử hai bên, cũng cả nhà quỳ ở giữa, có khác chăng là không có cái khăn chít đầu thôi…
“… Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa…”
Tiếng tụng niệm kéo tư tưởng vẩn vơ của tôi trở về thực tại. Tôi cũng chắp tay hộ niệm theo tiếng chuông mõ đổ nhịp đều đều…
Ngày hôm đó, mọi người ở lại dùng bữa cơm chay với gia đình. Cả nhà tôi cũng ăn chay. Đến lúc này tôi mới biết má tôi nấu đồ chay ngon chẳng khác gì đồ mặn.
Đêm đó và cả hai đêm sau, nhà tôi bình yên. Bà nội và má tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là xong…
Nhưng không. Đêm thứ tư, cái bóng đen ấy lại xuất hiện. Nó chẳng khuấy phá gì nhưng cứ chạy qua chạy lại trong nhà như trêu ghẹo, có khi nó cứ tuột lên tuột xuống ở cột cái ngôi nhà. Người lớn trong nhà ai cũng thấy. Rồi lần lần đến lượt nhỏ em tôi …
Đên đó, con An em kế tôi nửa đêm mắc đi tè. Nó lần dò thành giường ra mở đèn nhà sau. Ánh sáng đèn vừa mới bật, nó thoáng thấy bóng đen chạy vù qua mặt nó như làn gió rồi biến mất. Thế là nó hét lên như bò rống làm cả nhà kinh hoàng thức giấc, cái quần nó mặc ướt sũng, chỗ nó đứng đọng thành một vũng nước to, khai ngấy.
Tức mình ở chỗ, ai cũng nói thấy nhưng tôi thì tiệt nhiên không. Nhiều đêm tôi cũng thức dậy đi “giải toả ức chế trong lòng” mà có thấy gì đâu? Hay là tại tôi thường đi chùa tụng kinh nên ma nó sợ nhỉ?

***
Ba ngày sau, nhà tôi có một vị khách.
Sự xuất hiện của người khách này là một điều kì lạ…
Bà mợ của tôi thường hành hương và công quả ở núi Tượng nên có quen biết một vị sư tu ở am nhỏ gần trên đảnh. Một hôm đi ra suối xách nước, bà gặp vị sư đang ngồi bên gộp đá. Bà cúi chào rồi tiếp tục làm việc của mình. Bất chợt, ông sư ấy ngoắc bà lại bảo: “ Vài hôm cô có về Sài Gòn, nếu trong nhà bà con có chuyện gì lạ, cô cứ lại chỗ đệ tử của tôi bên cầu chữ Y nhờ nó giúp, địa chỉ là……. Nếu nó từ chối thì cô cứ bảo do tôi nhắn miệng bảo nó phải làm…”
Quả thật hai hôm sau bà mợ tôi về lại Sài Gòn. Vì nhà tôi gần Xa cảng miền Tây cho nên bà mợ tôi ghé ngang thăm nội. Không ngờ nghe được câu chuyện xảy ra trong nhà, bà liên tưởng ngay đến lời dạy của ông sư trên núi., lập tức bà quày quả sang cầu chữ Y theo địa chỉ sư ông để lại…
Vị khách tôi gặp chính là đệ tử của ông sư trên núi Tượng. Và cũng là… sư phụ của tôi sau này. 
Vị khách đang ngồi nói chuyện vớI nội tôi tuổi trạc ngoài bốn mươi, ông mặc cái áo bà ba màu dà, dáng vẻ điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ. Mới nhìn ông, tôi đã sanh trong lòng một cảm giác rất đặc biệt, dường như là quen thuộc lắm. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi mới biết mặt ông, cái cảm giác ấy từ đâu mà có tôi cũng chẳng rõ. So với ông thầy Hai chữa tà lần trước tôi gặp thì phong cách của người này khác hẳn. Điềm đạm, khoan thai cứ như là một vị thiền sư... Tôi bước lạI lễ phép chào nội và ông: 
- Thưa nội con đi học mớI về. Thưa bác con đi học mớI về. 
- Phải thưa thầy đàng hoàng chứ không phải bác - Nội tôi chỉnh lại. 
Ông thầy (lúc này tôi mới biết ông là thầy)đỡ lời: 
- Cháu nó thưa sao cũng được mà. Đây là cháu lớn mà cô kể lúc nãy phải không? 
- Dạ nó đó thầy. Lớn tồng ngồng như vầy mà hổng biết làm gì, tốI ngày cứ ôm ba cuốn truyện ma, truyện chưởng, kinh Phật coi suốt. Thiệt tui rầu hết sức. 
Ông thầy ngó tôi chăm chú làm tôi hơi bị quê. 
Đoạn, ông ngoắc tôi lạI: 
- Đưa tay cho bác coi. 
Tôi riu ríu làm theo. Thầy coi bàn tay trái rồI coi cả bàn tay phải. Vừa lật tay tôi, ông vừa gật gù: “Tốt, có căn đây…” 
Thú thật, lúc đó tôi chẳng biết có căn là cái giống gì. Chỉ biết rằng đó là lời khen. Tôi khoái trong bụng. 
- Căn gì thầy ơi. Tối ngày ăn rồI đi chơi, hổng chơi thì đọc truyện. Riết rồi hổng lêu lổng cũng thành mọt sách có ngày. 
- Ậy, cái gì tớI thì nó sẽ tớI thôi mà. Để rồI cô coi. 

*** 
Sau vài câu chuyện xã giao, thầy xin phép nộI tôi đi tham quan ngôi nhà một vòng. Thầy hỏi kỹ lưỡng từng chi tiết một rồi quan sát các chỗ có bóng đen vụt qua. Tôi thấy thầy có vẻ giống thám tử hay cảnh sát điều tra hiện trường hơn. Đứng ở những nơi nhà tôi thường thấy ma, thầy co tay bắt quyết, miệng niệm cái gì đó lâm râm. Một lát sau, gật gù như đoán ra điều gì, thầy trở về ghế ngồI, miệng cười tủm tỉm. 
Cả nhà thắc mắc mà không ai dám hỏi. Nội tôi đánh bạo hỏi đại: 
- Có sao hôn vậy thầy? 
- Không sao đâu cô à. 
Vừa nói thầy vừa lôi trong cái đãy màu nâu đã cũ mèm của mình ra một chiếc hộp sơn mài nho nhỏ giống như mấy hộp trang điểm của phụ nữ. Thầy mở nắp hộp lấy ra cuộn chỉ đỏ và mấy cây kim may áo. Cả nhà tròn mắt. Tôi là người thất vọng nhất. Cứ tưởng thầy sẽ vẽ bùa niệm chú, gõ chuông đánh phép … như thôi từng thấy ở nhà thầy Hai chữa tà, ai dè… thầy chỉ có mấy cây kim và chỉ thêu… 
Tỏ vẻ không để ý gì đến thái độ mọI ngườI trong nhà, thầy lấy chỉ đỏ buộc vào giữa năm cây kim. Xong, thầy đem lạI cây cột cái giữa nhà, nơi mà mọI ngườI nhìn thấy con ma tuột lên tuột xuống. Lấy chỉ đỏ cột vào lưng chừng cây cột cái, năm cây kim rảI đều quanh thân cột, mũi kim hướng lên trời. Vừa cột thầy vừa lẩm nhẩm điều gì đó…. 
Hoàn thành công việc, thầy dặn mọI ngườI không được đến gần nơi cột chỉ đỏ. Trong buổI tốI hoặc đến sáng hốm sau, nếu có chuyện gì lạ cũng đừng ngạc nhiên. Cứ để yên đó chờ khoảng tám giờ sáng hôm sau thầy quay lạI thu phép.Tối hôm đó tôi thấy một giấc mơ kì quái…
… Tôi đang lui cui dọn dẹp “bãi chiến trường” sau khi cột bánh xong, đột ngột thoáng qua trước mắt tôi một bóng người nho nhỏ. Nó lạng qua cây cột giữa rồi chạy thẳng ra sân. Tôi hét lên " Ai đó? Đứng lại!". Cái bóng vẫn điềm nhiên chạy. Tức mình, tôi quăng cây chổi cỏ xuống đất và co cẳng chạy đuổi theo. Cái bóng đó chạy nhanh thật. Gió vù vù hai bên mang tai, tôi rượt theo cái bóng đó qua không biết bao nhiêu ngã đường, quẹo không biết bao nhiêu con hẻm… cái bóng vẫn như đang chơi trò cút bắt với tôi. Tôi chạy chậm thì nó cũng khệnh khạng dềnh dàng như trêu tức, tôi chạy nhanh thì nó cũng vọt ào ào. Tức mình, tôi tăng tốc độ, nín thở chạy nà tới nó. Chỉ còn vài bước chân là tôi bắt kịp nó rồi. Hai tay tôi vươn ra tóm lấy áo nó… Xí hụt… Cái bóng nhỏ tràn qua né được và phóng mình chạy tiếp. Đâu dễ dàng bỏ cuộc như thế, lập tức tôi băng theo.
Chạy đến một bãi đất rộng, cái bóng nhỏ dừng chân và từ từ quay người lại… Trời đất ơi! Mọi người có biết chuyện gì không? Cái thằng nhỏ đứng trước mặt tôi giống tôi như đúc. Có thể nói, nó chính là … tôi. Cũng cái quần xà lỏn bông xanh má tôi ngắt bớt từ tấm vải may chiếc áo bà ba, cũng cái áo cụt tay trắng bị rách một đường bên nách, cũng mái tóc húi cua trọc lóc… Tôi đang đứng trước ...bản thân mình!
Tôi há hốc mồm ngáp ngáp… chẳng nói được câu gì.
Chợt, tôi … à mà không phải, thằng bé trong hình dáng của tôi đưa tay về phía tôi ngoắc ngoắc. Miệng nó cười thấy rõ cái răng cửa bị gãy một bên, kết quả của lần tôi bị té võng. Tôi líu ríu bước tới.Thằng kia quay người đi trước.
Đến một cây cầu tuột thật lớn, nó chạy nhanh về phía các bậc thang. Nhanh như sóc, nó trèo lên đỉnh dốc của cầu tuột. Tôi không biết làm gì khác hơn là đi theo nó. Hai đứa đứng bên nhau trên đỉnh cầu tuột. Thằng bé giống tôi đưa tay chỉ máng trượt và nhìn tôi như muốn rủ tôi cùng chơi.
Thiệt tình tôi không khoái cái vụ này cho lắm. Hồi nhỏ tôi từng chơi cầu tuột. Mông vừa chạm đất thì có một thằng khác tuột đằng sau tống hai bàn cẳng vào lưng như trời giáng làm tôi té sấp úp mặt xuống cát… Từ đó tôi không bao giờ tham gia cái trò này nữa.
Thấy tôi chần chừ, thằng “tôi” lại cười toe toét và ngồi xuống bắt đầu tuột một mình. Vèo một cái nó đã xuống tới đất. Thay vì vòng lên bậc thang trở về đầu dốc, thằng nhỏ lại leo lên bằng con đường máng trượt. Lên tới nơi, nó quay mình lại và tiếp tục lần hai.
Nhưng đến lần tuột thứ ba thì có chuyện xảy ra. Vừa tuột xuống lưng chừng máng tuột thì … một cây cột sắt bự chảng từ đâu ngã xuống ngay máng trượt đè thằng nhỏ kẹt cứng. Thằng nhỏ vùng vẫy la hét, tôi cũng hoảng hốt la lên. Vừa cất tiếng la thì… Trời ơi, tôi thấy chính mình đang bị đè kẹt cứng dưới cây cột sắt. Cây cột vừa lạnh vừa nặng, hai chân tôi tê cứng. Nhìn xung quanh cứ tối dần tối dần, tôi sợ quá vừa la làng vừa vùng vẫy. Tiếng la của tôi chìm mất trong không gian tối dần, chân tay tôi tê dại…
***
Tôi mở mắt ra, bên giường tôi là bà nội, má và cô Ba tôi đang đứng. Nội tôi đang dùng tay vỗ vỗ vào mặt tôi chan chát, miệng kêu liên tục:
“ Dũng… Dũng… tỉnh chưa con? hả?”. Tôi trở mình ú ớ:
- Dạ, tỉnh rồi.
- Mô Phật! Mày ngủ mà làm gì la lối đạp giường ầm ĩ làm ai nấy hết hồn. Thôi ngồi dậy đi rửa mặt đi, cũng gần tới giờ cột bánh rồi.
Tôi uể oải ngồi dậy. Mọi chuyện trong mơ như một đoạn phim quay chậm cứ hiện ra mồn một trong đầu tôi. Tôi định kể cho nhà nghe… nhưng rồi lại sợ mọi người nói mình mộng mị nên thôi.
***
Trời sáng rõ, cô tôi xách mấy xâu bánh ra nhà bếp chuẩn bị nấu. Đi ngang qua cây cột giữa, chợt cô cất tiếng thất thanh:
- Má! Lên đây coi nè!
Bà nội, rồi má tôi, rồi cả tôi và con An cũng đứng dậy chạy lên. Trước mắt tôi , một hình ảnh thật đáng sợ… Trên thân cột, ngay hàng kim buộc chỉ đỏ quấn ngang, một hình nhân cắt bằng giấy thủ công vàng cao khoảng một gang tay đang bị kẹp giữa một cây kim và thân cột. Trên thân hình nhân vẫn còn những chữ bùa ngoằn ngoèo, xoắn trôn ốc… Nhìn kỹ hơn, trên trán hình nhân còn có một chấm đỏ bầm bằng hạt đậu… Tôi điếng hồn. Trời đất ơi! Đây chính là hình nhân của tôi vẽ chơi mấy hôm trước, do bà nội kêu gấp quá nên tôi quăng vào hộc tủ bàn học rồi quên bẵng đi mất… Bây giờ tại sao nó lại ở đây?
Bà nội tôi lầm bầm:
_ Chắc nhà này bị người ta ếm rồi!
Tôi toan đưa tay lấy hình nhân thì má tôi phát vào đầu tôi một cái đánh”bốp”:
- Làm gì vậy? Không nên nghe chưa. Về cột bánh đi!
Tôi vừa xoa xoa cái sọ khỉ trọc lóc của mình vừa quay trở lại công việc của mình, trong đầu tôi rối nùi như một mớ bòng bong.